DẪN
NHẬP
“Tình
yêu Đức Ki-tô quy tụ chúng ta nên một”
1.
Tình yêu Đức Ki-tô đã quy tụ một số lớn các môn đệ nên một, để như
Người và nhờ Người, trong Chúa Thánh Thần, theo dòng thời
gian, họ có thể đáp lại tình yêu của Chúa Cha, bằng
cách yêu mến Người ”hết lòng, hết dạ, hết sức” (x. Đnl 6,5) và
yêu anh em ”như chính mình” (x. Mt 22,39).
Trong
số các môn đệ này, những người đã cùng nhau quy tụ
thành các cộng đoàn tu trì, những người nam và người nữ
”thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ”
(Kh 7,9) đã và vẫn còn là biểu hiện hùng hồn của tình
yêu cao siêu và vô biên này.
Được
sinh ra ”không do ý muốn của xác thịt”, không bởi sự
hấp dẫn cá nhân, cũng không bởi động lực con người, nhưng
bởi ”Thiên Chúa” (Ga 1,13), do lời mời gọi và sự lôi cuốn
siêu nhiên, các cộng đoàn tu trì là dấu chỉ sống động về
sự tối thượng của tình yêu Thiên Chúa, Đấng làm nên
những điều kỳ diệu, và về tình yêu đối với Thiên Chúa và
với anh chị em mình như đã được Đức Giê-su Ki-tô biểu lộ
và thực hiện.
Vì
tầm quan trọng của các cộng đoàn tu trì đối với đời sống
và sự thánh thiện của Giáo Hội, nên cần phải tìm hiểu
kinh nghiệm sống của các cộng đoàn tu trì hôm nay, dù là
đan tu và chiêm niệm, hay dấn thân hoạt động tông đồ, mỗi
cộng đoàn theo sắc thái riêng. Tất cả các vấn đề được đề
cập ở đây, liên quan đến cộng đoàn dòng tu cũng được áp dụng
cho các cộng đoàn trong các tu đoàn tông đồ, tuy vẫn tôn
trọng đặc tính và pháp chế riêng của họ.
a.
Chủ đề của văn kiện liên quan đến sự kiện này : đặc
điểm mà đời sống huynh đệ cộng đoàn thể hiện nơi một số
quốc gia hôm nay có nhiều biến chuyển sánh với cách thức
xưa kia. Những biến chuyển này, cũng như những hy vọng và
thất vọng kèm theo, và vẫn đang tiếp tục, cần được suy tư
dưới ánh sáng Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Những biến chuyển
đó đã dẫn đến những hệ quả tích cực và cả những hệ quả
cần xem xét lại. Chúng làm sáng tỏ nhiều giá trị Tin
Mừng, do đó đem lại cho cộng đoàn tu trì một sinh lực
mới, nhưng cũng làm nảy sinh những vấn nạn khi làm lu
mờ một số yếu tố cơ bản của chính đời sống huynh đệ trong
cộng đoàn. Ở một vài nơi, dưới cái nhìn của nam nữ tu sĩ,
cộng đoàn tu trì dường như đã đánh mất tầm quan trọng của
mình và có lẽ không còn là lý tưởng phải theo đuổi nữa.
Với
đặc tính thanh thản và cần mẫn của những người tìm
kiếm thánh ý Thiên Chúa, nhiều cộng đoàn đã tìm cách
lượng định sự thay đổi này để có thể đáp trả tốt hơn ơn
gọi riêng của mình giữa Dân Thiên Chúa.
b.
Có nhiều yếu tố quyết định những thay đổi mà chúng ta
đã chứng kiến :
--
”Không ngừng trở về nguồn mạch của toàn thể đời sống
Ki-tô hữu và hứng khởi nguyên thuỷ của hội dòng” (1).
Cuộc gặp gỡ sâu xa và đầy đủ hơn với Tin Mừng và với bước
đột phá của đoàn sủng sáng lập, đã là sức thúc đẩy mãnh
liệt để tìm kiếm một tinh thần đích thực làm sinh động tình
huynh đệ, những cơ cấu và tập quán phải thể hiện tình
huynh đệ ấy cách thích đáng. Ở đâu việc gặp gỡ những nguồn mạch
và hứng khởi nguyên thuỷ này có phần phiến diện hoặc yếu
kém, thì ở đó đời sống huynh đệ gặp nguy hiểm và sa sút.
--
Tuy nhiên, tiến trình này đã xảy ra trong bối cảnh những phát triển
khác tổng quát hơn, vốn là một bối cảnh của cuộc sống, và đời
tu không thể tránh khỏi những hậu quả của nó (2).
Đời
tu là một thành phần sống động của Giáo Hội và các tu
sĩ sống giữa trần thế. Các giá trị và phản giá trị làm
xáo trộn một thời đại hay một hệ thống văn hoá, và những
cơ cấu xã hội diễn tả chúng, đều tác động đến mọi người,
kể cả Giáo Hội và các cộng đoàn tu trì. Các cộng đoàn tu
trì hoặc làm nên men Tin Mừng trong lòng xã hội, loan
báo Tin Vui giữa thế gian, công bố thành Giê-ru-sa-lem
trên trời ở đây và lúc này, hoặc ngã quỵ do suy
thoái nhanh hay chậm, chỉ vì đã chạy theo trần thế. Vì
vậy, suy tư và những đề xuất mới về ”đời sống huynh
đệ cộng đoàn” phải lưu ý đến bối cảnh của cuộc sống này.
--
Những tiến bộ trong Giáo Hội cũng ghi dấu sâu đậm nơi các cộng
đoàn tu trì. Công Đồng Va-ti-ca-nô II, một biến cố của ân
sủng, một biểu hiện vĩ đại nhất nhằm hướng dẫn mục vụ
Giáo Hội trong thế kỷ này, đã có những ảnh hưởng quyết định về
đời tu, không những chỉ qua sắc lệnh Đức Ái trọn hảo bàn
về đời tu, mà còn qua Giáo Hội học của Công Đồng và từng
văn kiện của Công Đồng.
Vì
những lý do trên, trước khi trực tiếp đề cập đến chủ đề,
văn kiện này bắt đầu cái nhìn từ bối cảnh bao quát trên
những thay đổi trong các môi trường có ảnh hưởng trực
tiếp hơn đến phẩm chất đời sống huynh đệ, và những lối
sống trong các cộng đoàn tu trì khác nhau.
Sự
tiến triển thần học
2.
Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã đóng góp rất nhiều trong việc đánh
giá lại ”Đời sống huynh đệ cộng đoàn” và trong việc canh
tân quan điểm về cộng đoàn tu trì.
Chính
sự phát triển Giáo Hội học đã ảnh hưởng đến sự tiến triển
trong hiểu biết của chúng ta về cộng đoàn tu trì hơn bất
cứ một yếu tố nào khác. Va-ti-ca-nô II xác quyết rằng
không thể nào chối cãi được là đời tu thuộc về sự sống và
sự thánh thiện của Giáo Hội, đồng thời Công Đồng đặt đời
tu vào vị trí trung tâm của mầu nhiệm hiệp thông và thánh
thiện của Giáo Hội (3).
Như
thế, cộng đoàn tu trì tham dự vào hình ảnh về Giáo Hội
được đổi mới và đào sâu. Từ đó dẫn đến một số kết
quả :
a.
Từ Giáo Hội - Mầu nhiệm đến chiều kích mầu nhiệm của
cộng đoàn tu trì
Cộng
đoàn tu trì không đơn thuần là một tập hợp các Ki-tô
hữu để tìm kiếm sự hoàn thiện cá nhân. Sâu xa hơn nhiều,
đó là sự thông phần và là chứng tá đặc biệt của Giáo Hội
mầu nhiệm, bởi vì nó là biểu hiện sống động và là sự hoàn
thành ưu việt của ”sự hiệp thông” đặc biệt, koinonia, của
Ba Ngôi cao cả ; Chúa Cha muốn những người nam và
người nữ được dự phần vào sự sống thông hiệp đó, trong Chúa
Con và Chúa Thánh Thần.
b.
Từ Giáo Hội-hiệp thông đến chiều kích hiệp thông huynh đệ
của cộng đoàn tu trì
Cộng
đoàn tu trì, trong cơ cấu, trong những động lực, trong những giá
trị riêng biệt của mình, làm cho hồng ân tình huynh đệ mà
Đức Ki-tô đã ban tặng cho toàn thể Hội Thánh trở nên hữu
hình cách công khai và không ngừng được mọi người
nhận biết. Chính vì lý do này, cộng đoàn tu trì có bổn
phận và sứ vụ hiệp thông huynh đệ sâu sắc, dấu chỉ và sự
khích lệ cho tất cả các Ki-tô hữu (4).
c.
Từ Giáo Hội được linh hoạt bởi các đoàn sủng đến chiều
kích đoàn sủng của cộng đoàn tu trì
Cộng
đoàn tu trì là một cơ thể sống động của tình hiệp thông
huynh đệ, được mời gọi sống trong sự hoạt động của đoàn
sủng nguyên thuỷ. Cộng đoàn tu trì là một phần trong mối hiệp
thông hữu cơ của toàn thể Giáo Hội, không ngừng được Chúa
Thánh Thần làm cho phong phú với nhiều tác vụ và đoàn
sủng.
Những
người gia nhập các cộng đoàn như thế phải có ơn gọi
đặc biệt. Trong thực tế, các phần tử của một cộng đoàn tu
trì được liên kết với nhau do một ơn gọi chung của Thiên Chúa
phù hợp với đoàn sủng nguyên thuỷ, do việc cùng được Giáo
Hội thánh hiến cách đặc biệt, do việc chung nhau đáp lại
ơn gọi nhờ tham dự vào ”kinh nghiệm của Thánh Thần” mà đấng
sáng lập đã sống và trao lại, cũng như trong sứ vụ của
đấng sáng lập trong lòng Giáo Hội (5).
Giáo
Hội cũng mong muốn tiếp nhận với lòng biết ơn những đoàn
sủng ”tầm thường nhất và được phú ban rộng rãi” (6) mà
Thiên Chúa đã phân phát nơi các phần tử của Giáo Hội vì
lợi ích của toàn Thân Thể. Cộng đoàn tu trì hiện hữu vì
Giáo Hội, biểu lộ Giáo Hội và làm phong phú Giáo Hội (7), giúp
cho Giáo Hội thực hiện tốt hơn sứ mệnh của mình.
d.
Từ Giáo Hội xét như là bí tích hiệp nhất đến chiều
kích tông đồ của cộng đoàn tu trì
Mục
đích việc tông đồ là đưa nhân loại trở lại hiệp nhất
với Thiên Chúa và hiệp nhất với nhau qua đức ái thần
linh. Đời sống huynh đệ cộng đoàn, một biểu lộ của sự hiệp nhất
hình thành bởi tình yêu Thiên Chúa, ngoài việc là một
chứng từ cốt yếu của việc loan báo Phúc Âm, còn có ý
nghĩa lớn lao đối với hoạt động tông đồ cũng như đối
với mục đích tối hậu của nó. Chính từ điểm này mà sự hiệp
thông huynh đệ của cộng đoàn tu trì rút ra được sức mạnh như là
dấu chỉ và phương tiện. Thực vậy, sự hiệp thông huynh đệ
vừa là khởi điểm vừa là đích điểm của sứ vụ tông đồ.
Từ
thời Công Đồng, huấn quyền đã đào sâu và làm phong
phú thêm quan điểm mới về cộng đoàn tu trì với những cái
nhìn trẻ trung (8).
Sự
tiến triển trong Giáo luật
3.
Bộ giáo luật (1983) phân loại và định nghĩa những xác quyết
của Công Đồng về đời sống chung.
Khi
Giáo luật nói tới ”đời sống chung”, ta cần phải phân biệt rõ
ràng hai khía cạnh.
Trong
khi Bộ giáo luật 1917 (9) dường như cho ta cảm tưởng là tập
trung vào những yếu tố bên ngoài và một lối sống đồng
nhất, thì Va-ti-ca-nô II (10) và Bộ giáo luật mới (11) rõ
rệt nhấn mạnh đến chiều kích thiêng liêng và đến mối dây
huynh đệ, là yếu tố hiệp nhất mọi phần tử trong đức ái.
Bộ giáo luật mới đã tổng hợp cả hai yếu tố này khi nói
“sống chung đời huynh đệ” (12).
Như
vậy, trong đời sống cộng đoàn, có thể phân biệt hai yếu tố
liên kết và hiệp nhất các phần tử :
yếu
tố thứ nhất, có tính cách thiêng liêng hơn : ”Tình huynh đệ”
hay ”sự hiệp thông huynh đệ”, phát xuất từ tâm hồn, do
đức ái thúc đẩy. Tình huynh đệ này nhấn mạnh đến ”sống
hiệp thông” và những mối tương quan cá vị (13) ;
yếu
tố thứ hai, có tính cách hữu hình hơn : ”Sống chung” hay ”đời
sống cộng đoàn”, hệ tại ”sống trong một nhà dòng đã được
thiết lập theo luật pháp” và ”đưa đến một đời sống chung”
nhờ trung thành với chính các nguyên tắc, tham dự vào các hoạt
động chung, và cộng tác vào các việc phục vụ chung (14).
Tất
cả những điều này được thực hiện ”theo lối sống riêng
của họ” (15) tại các cộng đoàn khác nhau, theo đoàn sủng
và luật riêng của hội dòng (16). Từ đó phát sinh tầm quan trọng
của luật riêng ; luật riêng phải áp dụng vào đời
sống cộng đoàn những gì thuộc về gia sản của mỗi hội dòng
và như phương tiện để thực hiện điều đó (17).
“Đời
sống huynh đệ” hiển nhiên không phải tự động có được bằng
việc tuân giữ các nguyên tắc chi phối đời sống chung, nhưng
rõ ràng đời sống chung cổ võ cho đời sống huynh đệ rất
nhiều.
Sự
tiến triển trong xã hội
4.
Xã hội tiến hoá không ngừng, và các tu sĩ nam nữ tuy không
thuộc về trần thế, nhưng sống trong trần thế và chịu ảnh
hưởng của trần thế.
Ở
đây chúng ta sẽ đề cập đến một vài khía cạnh đã tác động
trực tiếp đến đời sống tu trì nói chung và cộng đoàn tu trì nói
riêng.
a.
Những phong trào giải phóng chính trị và xã hội trong thế giới thứ
ba và tiến trình đẩy mạnh kỹ nghệ hoá đã đưa đến
những thay đổi lớn về phương diện xã hội, nhấn mạnh đặc biệt
đến ”sự phát triển các dân tộc” và, trong những thập niên
gần đây, nhấn mạnh đến những tình trạng nghèo khó và khốn
cùng. Các Giáo Hội địa phương đã phản ứng mạnh mẽ khi đối đầu
với những phong trào phát triển này.
Trên
hết, tại châu Mỹ La-tinh, qua các hội nghị của Hội Đồng Giám
Mục châu Mỹ La-tinh ở Medellin, Puebla, và Santo Domingo,
”sự chọn lựa theo Tin Mừng và ưu tiên đứng về phía
người nghèo” (18) được đưa lên hàng đầu, và được nhấn
mạnh trong những dấn thân xã hội.
Các
cộng đoàn tu trì chịu ảnh hưởng sâu xa bởi điều đó ; nhiều
cộng đoàn đi đến chỗ suy nghĩ lại về sự hiện diện của
mình trong xã hội, với ý muốn trực tiếp phục vụ người
nghèo, thậm chí đôi khi hoà nhập với người nghèo.
Cảnh
khốn khổ gia tăng tràn lan ở ngoại ô các thành phố lớn
cùng với sự bần cùng hoá các vùng nông thôn đã thôi thúc
”việc xác định lại vị trí” của một số lớn các cộng đoàn
tu trì hướng đến những vùng nghèo khổ hơn này.
Khắp
nơi đều gặp phải thách đố về hội nhập văn hoá. Các nền
văn hoá, các truyền thống và não trạng, tất cả cùng tác
động đến lối sống huynh đệ trong cộng đoàn tu trì.
Hơn
nữa, trong những năm gần đây, phong trào di dân với quy mô
lớn đã làm phát sinh vấn đề nhiều nền văn hoá khác nhau
cùng tồn tại, và vấn đề phản ứng chống lại sự phân biệt
chủng tộc. Tất cả những sự kiện trên cũng ảnh hưởng đến
những cộng đoàn tu trì đa văn hoá và đa chủng tộc ngày
càng trở nên phổ biến.
b.
Những đòi hỏi về tự do cá nhân và nhân quyền là cốt lõi
của cao trào dân chủ hoá, có lợi cho sự phát triển kinh tế
cũng như cho sự phát triển xã hội dân sự.
Vào
giai đoạn tiếp liền sau Công Đồng, tiến trình này tăng nhanh, đặc biệt ở
Tây phương, và được đánh dấu bằng những cuộc hội họp thảo
luận về mọi vấn đề và bằng thái độ bãi bỏ quyền bính.
Giáo
Hội và đời tu không thể tránh khỏi phải đặt lại vấn
đề quyền bính, với những hậu quả đáng kể đối với chính
đời sống cộng đoàn.
Sự
nhấn mạnh một chiều và thái quá đến tự do đã góp phần làm
lan tràn khắp Tây phương một nền văn hoá cá nhân chủ nghĩa,
do đó làm suy yếu lý tưởng đời sống chung và sự dấn thân trong
các dự phóng của cộng đoàn.
Chúng
ta cũng nhận thấy những phản ứng khác, cũng có tính cách
một chiều, như lẩn trốn vào những hình thức chuyên quyền
gợi lên sự an toàn, dựa trên lòng tin mù quáng nơi người
lãnh đạo biết cách trấn an.
c.
Sự thăng tiến nữ giới, mà theo Đức Giáo Hoàng Gio-an XXIII,
là một trong những dấu chỉ của thời đại chúng ta, đã tác
động nhiều đến đời sống các cộng đoàn Ki-tô hữu ở nhiều
quốc gia khác nhau (19). Cho dù ở một vài nơi, đời tu bị
ảnh hưởng sâu xa bởi phong trào nữ quyền cực đoan, nhưng
hầu hết các cộng đoàn tu trì nữ giới đều tích cực
tìm kiếm những hình thức sống chung xét thấy hợp lý hơn
đối với nhận thức về căn tính, phẩm giá, và vai trò của
người nữ trong xã hội, trong Giáo Hội và trong đời tu.
d.
Sự bùng nổ thông tin, bắt đầu từ những năm 1960, đã ảnh
hưởng đáng kể và đôi khi bi thảm, đến mức độ tổng quát về
thông tin, đến nhận thức về trách nhiệm xã hội và tông
đồ, đến tính di động tông đồ và phẩm chất của những mối
tương quan nội tại, đó là chưa kể đến phong cách sống đặc biệt
và bầu khí trầm lặng phải là đặc trưng của cộng đoàn tu
trì.
đ.
Chủ nghĩa hưởng thụ và chủ nghĩa khoái lạc, cùng với sự
suy yếu quan điểm đức tin, là đặc điểm của chủ nghĩa
tục hoá, đã ảnh hưởng đến các cộng đoàn tu trì ở nhiều
nơi. Những nhân tố này đã thử thách ác liệt khả năng
”chống lại sự dữ” của các cộng đoàn tu trì, nhưng đồng
thời cũng phát sinh những phong cách sống mới nơi đời
sống cá nhân và cộng đoàn, phong cách đó là một chứng
tá Tin Mừng rõ rệt cho thế giới chúng ta.
Tất
cả những điều này đã là một thách đố, là lời mời gọi sống
các lời khuyên Phúc Âm mãnh liệt hơn, đồng thời nâng đỡ
chứng tá của cộng đồng Ki-tô hữu.
Những biến chuyển
trong đời tu
5. Trong những năm gần
đây, nhiều biến chuyển đã ảnh hưởng sâu đậm đến các cộng
đoàn tu trì.
a. Một bối cảnh mới
trong cộng đoàn tu trì. Tại nhiều nước, các chương trình
quốc gia được triển khai ở một số lãnh vực vốn là lãnh
vực hoạt động của các tu sĩ - như công tác xã hội, giáo
dục, y tế - cùng với sự giảm sút ơn gọi, đã đưa đến tình
trạng giảm sút sự hiện diện của các tu sĩ trong các công việc
đã từng là điển hình của các hội dòng hoạt động tông đồ.
Như vậy, các cộng đoàn
lớn đang thu gọn phạm vi hoạt động cụ thể vốn là nét đặc
trưng của các hội dòng từ nhiều năm nay.
Thêm vào đó, ở một vài
nơi, các cộng đoàn nhỏ được ưa chuộng hơn, nơi đó tập hợp
các tu sĩ làm những công việc không thuộc về hội dòng,
mặc dù các hoạt động này thường phù hợp với đoàn sủng của
hội dòng. Điều này đã tác động một cách có ý nghĩa đến
lối sống chung và đòi hỏi thay đổi những nề nếp trong
cộng đoàn.
Đôi khi, khát vọng
chân thành muốn phục vụ Hội Thánh và gắn bó với các công
việc của hội dòng, cộng thêm với những nhu cầu cấp
bách của Giáo Hội địa phương, có thể làm cho các tu sĩ
đảm nhận quá nhiều công việc, do đó họ chỉ dành một ít thời gian cho
đời sống chung.
b. Sự gia tăng những
đòi hỏi giúp đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết hơn (như
người nghèo, người nghiện ngập, người tị nạn, người bên
lề xã hội, người tàn tật và bệnh nhân các loại) đã khơi dậy
trong đời tu sự đáp trả và hiến thân một cách đáng khâm
phục và đáng ca tụng.
Tuy nhiên, điều này
hiển nhiên đưa đến sự cần thiết phải thay đổi một số hình
thức truyền thống của cộng đoàn tu trì, mà một số
người cho là không thích hợp để đối phó với hoàn cảnh
mới.
c. Cách suy nghĩ và
lối sống của các tu sĩ làm việc trong môi trường bị tục
hoá, đặc biệt khi tác vụ được hiểu đơn thuần là một nghề,
một công tác hơn là đang thi hành sứ vụ truyền bá Phúc Âm, đôi
khi đã làm lu mờ thực tại thánh hiến và chiều kích
siêu nhiên của đời tu, đến nỗi đời sống huynh đệ cộng
đoàn đối với một số người đã trở thành chướng ngại vật
cho hoạt động tông đồ, hoặc chỉ là một công cụ có tính
cách chức năng.
d. Một quan niệm mới
về con người thành hình trong giai đoạn tiếp liền sau
Công Đồng, nhấn mạnh đến giá trị của ngôi vị và các sáng
kiến cá nhân. Điều này trực tiếp dẫn đến một cảm nhận sâu
sắc về cộng đoàn hiểu như đời sống huynh đệ được xây
dựng trên phẩm chất của những mối tương quan cá nhân hơn
là trên những khía cạnh hình thức của việc tuân giữ kỷ
luật.
Đó đây, những điểm
nhấn mạnh này trở thành triệt để (phát sinh khuynh hướng
đối lập giữa cá nhân chủ nghĩa với cộng đồng chủ nghĩa)
đôi khi không đưa đến sự quân bình thoả đáng.
đ. Các cơ cấu lãnh đạo
mới xuất hiện dựa vào những hiến pháp đã được tu chính,
đòi hỏi sự tham gia nhiều hơn của các nam nữ tu sĩ. Từ đó
xuất hiện những cách thế khác nhau khi tiếp cận các vấn
đề, qua sự đối thoại cộng đoàn, đồng trách nhiệm và hỗ
trợ lẫn nhau. Tất cả các thành viên đều quan tâm đến các
vấn đề của cộng đoàn. Điều này ảnh hưởng lớn đến
những mối tương giao cá nhân, và ngược lại, cũng ảnh hưởng đến
cách quan niệm về quyền bính. Không ít trường hợp, quyền
bính gặp phải những khó khăn thực tế khi tìm cho mình vị
trí đúng đắn trong bối cảnh mới.
Những đổi thay và xu
hướng nói trên kết hợp với nhau đã ảnh hưởng sâu xa đến
đặc tính của các cộng đoàn tu trì không chỉ trong một
hình thức sâu sắc, mà còn ở nhiều hình thức khác biệt.
Sự khác nhau đó, đôi
khi khá rõ, như ta có thể hiểu dễ dàng, phụ thuộc vào sự
khác biệt của các nền văn hoá và địa dư, vào các cộng
đoàn nam hay nữ, vào các dạng đời tu và hội dòng, vào các hoạt
động khác nhau và mức độ dấn thân để duyệt lại và hiện tại
hoá đoàn sủng của đấng sáng lập, vào những đường hướng
khác nhau để tồn tại trước xã hội và Giáo Hội, vào cách
thức đón nhận các giá trị mà Công Đồng đưa ra, vào những
truyền thống và hình thức khác nhau của đời sống chung,
vào các dạng thể hiện quyền bính và cổ võ sự canh tân
việc thường huấn. Những hoàn cảnh khó khăn trên đây
chỉ có một phần chung cho tất cả ; đúng hơn, chúng có xu
hướng khác biệt tuỳ theo cộng đoàn.
Các chủ đích của văn
kiện
6. Dưới ánh sáng của
những tình huống mới, mục đích trước hết của văn kiện này
nhằm ủng hộ những nỗ lực mà nhiều cộng đoàn tu sĩ nam nữ
đã đạt được, hầu cải thiện phẩm chất đời sống huynh đệ.
Điều này được thực hiện nhờ trình bày một số tiêu chuẩn
nhận thức, dựa trên quan điểm canh tân theo Tin Mừng
đích thực.
Văn kiện này cũng muốn
đưa ra những lý do để những người đã tự tách mình ra khỏi
lý tưởng cộng đoàn suy nghĩ, giúp họ nghiêm chỉnh xem xét
lại nhu cầu sống chung huynh đệ đối với những người đã
tận hiến cho Thiên Chúa trong một hội dòng hay một tu đoàn tông đồ.
7. Trong những viễn
tượng trên, văn kiện có dàn bài như sau :
a. Cộng đoàn tu trì
như là một hồng ân : trước khi là một dự phóng của con người, đời
sống huynh đệ là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa
và Người muốn chia sẻ đời sống hiệp thông của Người.
b. Cộng đoàn tu trì là
nơi chúng ta trở nên anh chị em với nhau : những con
đường thích hợp nhất để cộng đoàn tu trì xây nên tình
huynh đệ Ki-tô giáo.
c. Cộng đoàn tu trì
như nơi và chủ thể của sứ vụ : những chọn lựa đặc biệt mà
một cộng đoàn được mời gọi thực hiện trong các môi trường
khác nhau, và những tiêu chuẩn để phân định.
Để đi vào mầu nhiệm
hiệp thông và huynh đệ, và trước khi thực hiện sự phân
định khó khăn nhưng cần thiết cho công cuộc canh tân
chứng tá Tin Mừng của cộng đoàn, chúng ta phải khiêm tốn
cầu khẩn Chúa Thánh Thần để Người hoàn tất điều mà chỉ
một mình Người có thể làm : ”Ta sẽ ban tặng các ngươi
một quả tim mới, sẽ đặt Thần Khí mới vào lòng các ngươi.
Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá ra khỏi thân mình các ngươi
và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Các ngươi
sẽ là dân của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi” (Ed 36,26-28).
CHƯƠNG I : HỒNG
ÂN HIỆP THÔNG VÀ HỒNG ÂN CỘNG ĐOÀN
8. Trước khi là một
kiến trúc của con người, cộng đoàn tu trì đã là một hồng
ân của Chúa Thánh Thần. Chính là do tình yêu Thiên Chúa,
được đổ tràn đầy tâm hồn chúng ta nhờ Thần Khí, cộng đoàn
tu trì khởi đầu và được xây dựng thành một gia đình
thực sự, trong đó mọi người quy tụ lại với nhau nhân danh
Chúa (20).
Vì
thế, không thể nào hiểu được cộng đoàn tu trì nếu chúng ta
không bắt đầu từ bản chất của cộng đoàn như là một ân huệ
trên cao ban xuống, như một mầu nhiệm, bắt nguồn từ chính
trọng tâm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chí thánh và là
Đấng thánh hoá, Đấng hằng mong muốn cộng đoàn tu trì trở
nên thành phần của mầu nhiệm Giáo Hội nhằm phục vụ đời
sống con người.
Giáo
Hội xét như là sự hiệp thông
9.
Khi tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và
giống như Người, Thiên Chúa đã sáng tạo họ để họ sống
hiệp thông. Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, đã mạc khải chính Người
là Tình Yêu, là Ba Ngôi, là Sự Hiệp Thông, đã mời gọi họ
tham dự vào mối tương quan thâm sâu với chính Người và
vào mối hiệp thông liên vị trong tình huynh đệ đại đồng
giữa người với người (21).
Đây
là ơn gọi cao nhất của chúng ta : hiệp thông với Thiên Chúa
và với anh chị em.
Tội
lỗi đã làm tổn thương chương trình của Thiên Chúa, đã chia
cắt mọi thứ tương quan ; giữa loài người với Thiên Chúa,
giữa người nam với người nữ, giữa anh em với chị em, giữa
các dân tộc, giữa loài người với các thụ tạo khác.
Vì
tình yêu cao cả, Chúa Cha đã sai Con của Người là A-đam mới
đến để khôi phục lại toàn bộ công trình sáng tạo và đưa
chương trình đó đến chỗ thống nhất hoàn toàn. Khi đến
giữa chúng ta, Người bắt đầu thiết lập một dân mới
của Thiên Chúa, kêu gọi các Tông Đồ và các môn đệ, những
người nam và người nữ đến với Người - đó là một hình ảnh sống
động cho thấy một nhân loại được quy tụ lại với nhau trong sự
hiệp nhất. Người loan báo cho họ biết tình huynh đệ đại
đồng trong Chúa Cha, Đấng đã làm cho chúng ta trở thành
người nghĩa thiết, thành con cái của Người và thành anh
chị em với nhau. Như thế, Người đã dạy chúng ta sống bình
đẳng trong tình huynh đệ và hoà giải trong tha thứ. Người
đảo lộn những mối tương quan của quyền lực và thống trị
bằng cách chính Người nêu gương phục vụ và chọn chỗ rốt
hết. Trong bữa Tiệc Ly, Người đã trao cho họ một giới răn
mới là yêu thương nhau : ”Thầy ban cho anh em một điều
răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu mến anh
em, anh em cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13,14 ; x. 15,12). Người đã
thiết lập bí tích Thánh Thể, để khi cho ta được chia sẻ
cùng một bánh và một chén, bí tích này nuôi dưỡng tình
yêu của chúng ta đối với nhau. Rồi Người hướng về Chúa
Cha mà cầu xin - như là tổng hợp mọi ước nguyện - cho tất
cả họ được hiệp nhất theo khuôn mẫu sự hiệp nhất của Ba
Ngôi : ”Để hết thảy họ nên một cũng như, lạy Cha, Cha ở trong con
và con ở trong Cha, ngõ hầu họ ở trong chúng ta và thế
gian tin là Cha đã sai con” (x. Ga 17,21).
Rồi
khi vâng theo thánh ý Chúa Cha, Người đã hoàn tất sự hiệp nhất
đó trong mầu nhiệm Vượt Qua, sự hiệp nhất mà Người đã dạy
các môn đệ phải sống và là sự hiệp nhất mà Người đã
cầu xin Chúa Cha. Nhờ cái chết trên thập giá, Người đã
phá đổ bức tường ngăn cách các dân tộc, hoà giải tất cả
chúng ta nên một (x. Ep 2,14-16). Nhờ đó, Người dạy chúng
ta biết rằng hiệp thông và hiệp nhất là hoa trái do việc chia sẻ
mầu nhiệm sự chết của Người.
Việc
Chúa Thánh Thần hiện xuống, hồng ân đầu tiên ban cho các tín
hữu, đã đem lại sự hiệp nhất mà Đức Ki-tô mong muốn. Sau
khi đã xuống tràn đầy các môn đệ đang tụ họp cùng với Đức
Ma-ri-a trong nhà Tiệc Ly, Thánh Thần đã ban cho Giáo
Hội một dấu hữu hình, mà ngay từ lúc đầu đã được coi
là đặc điểm của tình huynh đệ và hiệp thông trong sự hiệp
nhất một trái tim và một linh hồn (x. Cv 4,32).
Sự
hiệp thông này là mối dây yêu thương liên kết mọi thành
phần trong cùng một Thân Thể Đức Ki-tô với nhau, và nối
kết Thân Thể với Đầu. Cũng sự hiện diện ban sự sống của
Chúa Thánh Thần (22) làm nên sự liên kết hữu cơ trong Đức
Ki-tô. Người hiệp nhất Giáo Hội trong sự hiệp thông và
tác vụ, phối hợp và hướng dẫn Giáo Hội nhờ các ơn huệ phẩm trật
và đoàn sủng bổ túc lẫn nhau và làm cho Giáo Hội nên
xinh đẹp nhờ sinh nhiều hoa trái (23).
Trong
cuộc lữ hành trần thế này, Giáo Hội duy nhất và thánh thiện
không ngừng nhận thức những căng thẳng đôi khi đau thương để hướng tới
sự hiệp nhất hữu hiệu. Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội
càng ngày càng ý thức rằng mình là Dân và là Gia Đình của
Thiên Chúa, là Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh
Thần, là Bí tích của sự hiệp nhất sâu xa nơi nhân loại,
là sự hiệp thông, hình ảnh của Chúa Ba Ngôi. Có lẽ hơn bao
giờ hết, Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã làm nổi bật chiều
kích mầu nhiệm và ”hiệp thông” này của Giáo Hội.
Cộng
đoàn tu trì diễn tả sự hiệp thông trong Giáo Hội
10.
Ngay từ ban đầu, đời sống thánh hiến đã nuôi dưỡng
bản chất thâm sâu này của Ki-tô giáo. Thực vậy, cộng đoàn
tu trì cảm thấy chính mình đang tiếp nối nhóm người đã
theo Đức Giê-su. Người đã gọi đích danh từng người một để
họ sống hiệp thông với chính Người và với các môn đệ
khác, để chia sẻ cuộc sống và thân phận của người (x. Mc
3,13-15), và qua đó, cộng đoàn tu trì trở thành dấu chỉ sự
sống, sự hiệp thông mà Người đã khởi đầu. Các cộng đoàn
đan tu đầu tiên đã coi cộng đoàn các môn đệ theo Đức
Ki-tô và cộng đoàn Giê-ru-sa-lem là lý tưởng sống của họ. Như
Giáo Hội thời sơ khai chỉ có một trái tim và một tâm hồn,
cũng vậy, các đan sĩ sống với nhau dưới sự hướng dẫn tinh
thần của đan viện phụ, quyết tâm sống hiệp thông triệt để cả về
tinh thần lẫn vật chất, và sống sự hiệp nhất mà chính
Đức Ki-tô đã thiết lập. Sự hiệp nhất này có khuôn mẫu đầu
tiên và động lực là đời sống hiệp nhất của các ngôi vị
trong Ba Ngôi chí thánh.
Vào
những thế kỷ tiếp theo, nhiều hình thức cộng đoàn đã
nảy sinh do tác động đoàn sủng của Chúa Thánh Thần. Người
là Đấng dò thấu chiều sâu lòng dạ con người, đã tác động
để làm thoả mãn các nhu cầu của con người. Người đã làm
xuất hiện những người nam nữ, để nhờ ánh sáng Tin
Mừng soi dẫn và bén nhạy với những dấu chỉ của thời đại,
họ khai sinh ra những gia đình dòng tu mới, và từ đó,
khai sinh ra nhiều phương thế mới để sống sự hiệp thông
duy nhất trong tính đa dạng của các tác vụ và cộng đoàn (24).
Chúng
ta không thể nói về cộng đoàn tu trì một cách như nhau. Lịch
sử đời sống thánh hiến làm chứng rằng có nhiều cách khác
nhau để sống sự hiệp thông tuỳ theo bản chất của mỗi hội
dòng. Nhờ đó, ngày nay chúng ta có thể ngưỡng mộ ”sự khác
biệt kỳ diệu” của các gia đình dòng tu đã làm phong
phú cho Giáo Hội, và trang bị Giáo Hội hầu thi hành mọi việc
thiện (25) ; và từ đó chúng ta cũng nhận thấy sự khác
biệt trong các hình thức sống cộng đoàn.
Tuy
nhiên, trong những hình thức khác nhau, đời sống huynh đệ cộng
đoàn luôn luôn là cách diễn tả triệt để tinh thần huynh đệ phổ
quát, là tinh thần hiệp nhất tất cả các Ki-tô hữu. Cộng
đoàn tu trì là một biểu hiệu hữu hình của sự hiệp thông,
vốn là nền móng của Giáo Hội và đồng thời là lời tiên báo
sự hợp nhất mà Giáo Hội nhắm tới như cùng đích của mình. Vì
vậy, như những nhà chuyên môn về sự hiệp thông, được kêu
gọi trở nên một cộng đoàn Giáo Hội ở trong Giáo Hội và
trong thế giới, các tu sĩ là những chứng tá và những
người kiến tạo chương trình hiệp nhất, đỉnh vinh quang
của lịch sử loài người trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Trên hết, nhờ khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, là lời
khấn giúp cho con người thoát khỏi những trở ngại để đạt
tới đức ái nhiệt thành, người tu sĩ cùng nhau
là
dấu chỉ mang tính ngôn sứ của sự hiệp nhất thâm sâu với
Thiên Chúa, Đấng mà ta phải yêu mến trên hết mọi sự. Hơn
nữa, qua kinh nghiệm hàng ngày của sự hiệp thông
trong đời sống, trong cầu nguyện và hoạt động tông đồ -
những yếu tố chủ yếu và đặc biệt của đời sống thánh hiến - họ
là dấu chỉ của tình huynh đệ. Thực vậy, trong một thế
giới thường bị chia cắt sâu xa, và trước mắt anh em của
mình trong đức tin, họ đưa ra chứng tá là họ có khả năng để
chung của cải, yêu thương huynh đệ, có một chương trình
sống và hoạt động riêng, vì họ đã chấp nhận lời kêu gọi đi theo
sát Chúa Ki-tô cách tự do hơn, Đấng đã được Chúa Cha sai
đến, để với tư cách là trưởng tử giữa nhiều anh chị em,
Người thiết lập một tình huynh đệ trong ân huệ của Thánh
Thần (26).
Tất
cả những điều này sẽ trở nên rõ ràng hơn đến độ họ không
chỉ suy tưởng với và trong Giáo Hội, mà còn cảm thấy
chính mình là Giáo Hội, bằng cách đồng hoá chính mình với Giáo
Hội trong hiệp thông trọn vẹn với giáo thuyết, với sự
sống, với các mục tử, với niềm tin và với sứ vụ của Giáo
Hội trong thế giới (27).
Chứng
tá do các tu sĩ chiêm niệm đem lại có ý nghĩa đặc
biệt. Đối với họ, đời sống huynh đệ có những chiều kích
sâu rộng hơn, bắt nguồn từ những đòi hỏi cơ bản của ơn
gọi đặc biệt này, là tìm kiếm một mình Thiên Chúa trong
thinh lặng và cầu nguyện
Việc
họ thường xuyên gắn bó với Thiên Chúa làm cho họ gắn
bó với những phần tử khác trong cộng đoàn cách tế nhị và
tôn trọng hơn, và sự chiêm niệm đem lại một sức mạnh giải phóng
họ khỏi mọi hình thức ích kỷ.
Đời
sống huynh đệ cộng đoàn trong một đan viện được coi
là dấu chỉ sống động của mầu nhiệm Giáo Hội : mầu nhiệm
ân sủng càng lớn thì hoa quả ơn cứu độ càng dồi dào.
Bằng
cách này, Thần Khí của Chúa, Đấng đã quy tụ các tín
hữu đầu tiên, và là Đấng tiếp tục kêu gọi Giáo Hội trở
thành một gia đình duy nhất, cũng kêu gọi và nuôi dưỡng các gia
đình tu trì, nhờ những cộng đoàn của mình rải rác trên
khắp thế giới, có sứ vụ trở nên những dấu chỉ rõ rệt của
sự hiệp thông nội tại, sự hiệp thông sâu đậm làm sinh
động và kiến tạo Giáo Hội, đồng thời hỗ trợ cho việc
hoàn thành chương trình của Thiên Chúa.
CHƯƠNG
II : CỘNG ĐOÀN TU TRÌ LÀ NƠI MỌI NGƯỜI TRỞ THÀNH ANH CHỊ EM
11.
Từ hồng ân hiệp thông phát sinh bổn phận xây dựng tình huynh
đệ, nói cách khác, bổn phận trở thành anh chị em với nhau
trong một cộng đoàn, nơi mà tất cả mọi người được kêu gọi
sống chung với nhau. Do việc chấp nhận với lòng thán phục
và biết ơn các thực tại hiệp thông Thiên Chúa được chia
sẻ cho riêng con người, cũng phát sinh xác tín về sự cần
thiết phải làm cho sự hiệp thông đó trở nên rõ ràng hơn
bằng việc xây dựng những cộng đoàn ”tràn đầy niềm vui
và Thánh Thần” (Cv 13,52).
Trong
thời đại chúng ta và vì thời đại chúng ta, cần phải tái
đảm nhận công việc ”nhân thần” này trong việc xây dựng
cộng đoàn anh chị em, đang khi vẫn luôn nhớ đến
những hoàn cảnh đặc trưng của thời đại ngày nay, trong đó
sự phát triển thần học, giáo luật, xã hội và cơ chế đã
ảnh hưởng sâu xa đến dự phóng và đời sống cộng đoàn tu
trì.
Khởi
từ một số những hoàn cảnh cụ thể, văn kiện này muốn trình
bày những chỉ dẫn nhằm củng cố sự dấn thân để không
ngừng canh tân các cộng đoàn theo tinh thần Phúc Âm.
Linh
đạo và việc cầu nguyện chung
12.
Trong nguồn cội huyền nhiệm, mỗi cộng đoàn Ki-tô giáo đích
thực ”chính là một thực tại đối thần, một đối tượng của
sự chiêm niệm” (28). Do đó, trên hết, cộng đoàn tu trì là
một mầu nhiệm phải được chiêm niệm và đón nhận với lòng
ngưỡng mộ và tri ân, trong chiều kích trong sáng của niềm tin.
Hễ
khi nào chúng ta không thấy được chiều kích huyền nhiệm và đối thần này,
chiều kích nối kết cộng đoàn tu trì với mầu nhiệm Thiên Chúa
hiệp thông, hiện diện và truyền thông cho cộng đoàn, tất
nhiên chúng ta sẽ đi đến chỗ quên những lý do sâu xa ảnh
hưởng đến việc “kiến tạo cộng đoàn”, đến việc kiên
trì xây dựng đời sống huynh đệ. Cuộc sống này đôi khi có
vẻ như vượt quá sức con người và là một sự lãng phí sinh
lực vô ích, đặc biệt đối với những người hăng say dấn
thân hoạt động và bị chi phối bởi một nền văn hoá duy
hoạt động và cá nhân chủ nghĩa.
Cũng
một Đức Ki-tô, Đấng đã kêu gọi họ, hàng ngày vẫn kêu
gọi các anh chị em lại với nhau để nói với họ, để hiệp
nhất họ với chính Người và với nhau trong bí tích Thánh
Thể, đồng hoá với Thân Thể sống động và hữu hình của
Người, nơi Chúa Thánh Thần đang hoạt động, trong hành trình
hướng về Chúa Cha.
Việc
cầu nguyện chung, vốn luôn được xem là nền tảng của tất cả
đời sống cộng đoàn, bắt đầu từ việc chiêm niệm mầu nhiệm
vĩ đại và siêu phàm của Thiên Chúa, từ việc thán phục sự
hiện diện của Người, đang diễn ra trong những giây phút ý nghĩa
nhất của đời sống các gia đình dòng tu cũng như trong
những thực tại khiêm tốn và thường nhật của các cộng đoàn
tu trì chúng ta.
13.
Để đáp lại lời Chúa khuyên : ”hãy tỉnh thức và cầu
nguyện” (x. Lc 21,36), một cộng đoàn tu trì cần phải tỉnh
thức và có thời gian cần thiết để quan tâm đến phẩm chất
của đời sống cộng đoàn. Đôi khi anh chị em tu sĩ ”không có
thời giờ” và ngày sống của họ có nguy cơ trở nên quá bận
rộn và lo lắng, và cuối cùng, họ có thể cảm thấy mệt mỏi
và kiệt sức. Thực vậy, cộng đoàn tu trì được điều chỉnh
nhờ một thời khoá biểu đều đặn ấn định thời giờ cho việc
cầu nguyện, và nhất là nhờ đó chúng ta biết dành thời giờ
cho Thiên Chúa (vacare Deo).
Việc
cầu nguyện phải được xem như là thời gian kết hợp
với Thiên Chúa nhờ đó Người có thể hoạt động trong chúng
ta, và giữa những lo lắng, mệt nhọc của chúng ta, Người
có thể đi vào đời sống chúng ta, an ủi và dìu dắt,
để cuối cùng trọn cuộc sống chúng ta có thể thuộc về
Người.
14.
Một trong những thành quả giá trị nhất trong những thập niên
gần đây được mọi người nhìn nhận và ca tụng, là việc các
gia đình tu trì tái khám phá kinh nguyện phụng vụ.
Việc
cử hành chung Các Giờ Kinh Phụng Vụ, hay ít là một phần, đã
tiếp sinh khí cho kinh nguyện trong nhiều cộng đoàn, một
kinh nguyện được liên kết sống động hơn với Lời
Thiên Chúa và với kinh nguyện của Giáo Hội (29).
Vì
thế, tất cả mọi người đều phải xác tín mạnh mẽ rằng một
cộng đoàn được xây dựng khởi từ phụng vụ, đặc biệt
từ việc cử hành bí tích Thánh Thể (30) và những bí tích
khác. Trong số những bí tích này, nên chú tâm lại tới bí
tích Hoà Giải, vì qua đó Thiên Chúa khôi phục sự hiệp
nhất với chính Người và với anh chị em.
Noi
gương cộng đoàn tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem (x. Cv 2,42), Lời
Chúa, Thánh Thể, cầu nguyện chung, tận tuỵ và trung thành
với lời giảng dạy của các Tông Đồ và những người kế vị
các ngài : những yếu tố ấy giúp ta tiếp xúc với những kỳ
công của Thiên Chúa ; nhờ các cử hành cộng đoàn, những
kỳ công này trở nên rực rỡ và làm nên lời ngợi khen,
cảm tạ, vui mừng, hiệp nhất các tâm hồn, giúp nhau chia
sẻ những khó khăn trong đời sống hằng ngày, và
khuyến khích nhau trong niềm tin.
Không
may, sự giảm sút con số các linh mục ở nơi này hay nơi khác
khiến cho việc tham dự Thánh Lễ hàng ngày không thực hiện
được. Trong những hoàn cảnh đó, chúng ta phải quan
tâm đào tạo việc thưởng nếm những ân huệ tuyệt vời của bí
tích Thánh Thể, và phải đặt mầu nhiệm Mình và Máu Thánh
Chúa vào chính cuộc sống của chúng ta, mầu nhiệm
đang sống và hiện diện trong cộng đoàn, để nâng đỡ và
thôi thúc cộng đoàn trong hành trình đến với Chúa Cha. Từ
đó phát sinh sự cần thiết là mỗi cộng đoàn tu trì phải có
nhà nguyện riêng như là trung tâm của cộng đoàn (31),
nơi các phần tử có thể nuôi dưỡng lòng sùng mộ Thánh Thể
bằng việc cầu nguyện và tôn thờ.
Chính
xoay quanh bí tích Thánh Thể, được cử hành hoặc tôn thờ,
”nguồn mạch và đỉnh cao” của mọi hoạt động trong Giáo Hội, ta
kiến tạo được sự hiệp thông các tâm hồn, sự hiệp thông
này là khởi điểm cho tất cả sự tăng trưởng trong tình huynh đệ.
”Tất cả mọi nền giáo dục về tinh thần cộng đoàn đều phải
bắt đầu từ đây” (32).
15.
Việc cầu nguyện chung đạt được hiệu quả trọn vẹn khi liên kết
mật thiết với việc cầu nguyện riêng. Việc cầu nguyện
chung và cầu nguyện riêng gắn bó chặt chẽ với nhau và bổ
sung lẫn nhau. Khắp nơi, nhưng đặc biệt trong một số miền và một
số nền văn hoá, phải nhấn mạnh hơn đến khía cạnh nội tâm,
đến mối tương quan phụ tử với Chúa Cha, đến mối tương
quan thân mật và phu thê với Đức Ki-tô, đến việc đào sâu
những gì được cử hành và được sống trong kinh nguyện cộng
đoàn, đến sự thinh lặng bên trong và bên ngoài hầu dành
một khoảng không gian cho Ngôi Lời và Thánh Thần, nhằm tái sinh
những chiều sâu kín ẩn nhất. Người tận hiến sống trong cộng
đoàn sẽ nuôi dưỡng sự thánh hiến của mình vừa qua việc
liên tục đối thoại cá nhân với Thiên Chúa, vừa qua lời
ngợi khen và chuyển cầu của cộng đoàn.
16.
Trong những năm gần đây, kinh nguyện cộng đoàn đã trở
nên phong phú nhờ những hình thức diễn tả và chia sẻ khác
nhau.
Đối
với nhiều cộng đoàn, sự chia sẻ trong việc đọc và suy
gẫm Lời Chúa (lectio divina), cũng như việc chia sẻ những
kinh nghiệm thiêng liêng của cá nhân và những thao
thức tông đồ, đã nảy sinh hoa trái đặc biệt. Sự khác biệt
do tuổi tác, do việc đào tạo và do tính tình, làm cho cộng đoàn
cần phải thận trọng khi đòi hỏi sự chia sẻ trong toàn thể
cộng đoàn. Thiết tưởng nên nhắc nhở rằng không thể hối
thúc thời điểm tốt được.
Ở
đâu được thực hành với tính tự phát và với sự đồng ý
chung, sự chia sẻ như thế sẽ nuôi dưỡng đức tin, đức cậy
cũng như lòng tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, giúp thực
hiện sự hoà giải và nuôi dưỡng tình liên đới huynh đệ
trong lời cầu nguyện.
17.
Lời Chúa truyền ”phải cầu nguyện luôn và đừng nản lòng” (Lc 18,1
; x. Tx 5,17) có giá trị đối với việc cầu nguyện riêng
cũng như cầu nguyện chung. Mỗi cộng đoàn tu trì đang
không ngừng sống dưới cái nhìn của Chúa và phải luôn luôn
ý thức sự hiện diện của Người. Tuy nhiên, kinh nguyện
chung có nhịp điệu riêng mà chu kỳ (hằng ngày, hàng tuần,
hàng tháng, hàng năm) phải được quy định trong luật riêng
của mỗi hội dòng.
Cầu
nguyện chung đòi hỏi việc trung thành với thời khoá biểu và, trên hết,
đòi phải có sự kiên trì ”nhờ những lời Kinh Thánh làm cho
chúng ta nên kiên nhẫn, và khích lệ chúng ta, để nhờ đó,
chúng ta hy vọng có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh
Thiên Chúa là Thân Phụ của Đức Giê-su Ki-tô Chúa
chúng ta” (Rm 15,4-6).
Lòng
trung thành và sự kiên trì cũng sẽ giúp ta khắc phục được
một số khó khăn nơi một vài cộng đoàn, một cách sáng tạo
và khôn ngoan, như những dấn thân đa dạng, và những khó
khăn do thời khoá biểu, công việc quá tải thu hút con người,
và nhiều thứ mệt nhọc khác nữa.
18.
Việc cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, được thúc
đẩy bởi lòng yêu mến người, lòng yêu mến dẫn chúng ta tới
chỗ noi gương người, đưa đến hiệu quả là gương mẫu và sự
hiện diện đầy tình mẫu tử của Mẹ trở thành sức hỗ trợ lớn lao
giúp ta trung thành trong kinh nguyện hàng ngày (x. Cv 1,14), đồng
thời cũng là mối dây hiệp thông của cộng đoàn tu trì (33).
Mẹ
Thiên Chúa sẽ giúp các cộng đoàn trở nên giống gia đình
của Mẹ, gia đình Na-da-rét, nơi mà các cộng đoàn tu trì
phải thường xuyên thăm viếng cách thiêng liêng, vì nơi đó
Tin Mừng hiệp thông và huynh đệ đã được sống một cách
tuyệt vời.
19.
Việc cầu nguyện chung cũng nâng đỡ và nuôi dưỡng nhiệt
tình tông đồ. Một mặt, cầu nguyện là một năng lực biến
đổi kỳ diệu bao trùm tất cả mọi thực tại để cứu chuộc và
xếp đặt trật tự cho thế giới. Đàng khác, nó là sự khích
lệ trong tác vụ tông đồ, trong những niềm vui và khó khăn
hàng ngày. Như thế, tất cả những điều này trở nên cơ hội
để tìm kiếm và khám phá ra sự hiện diện và hoạt động của
Thiên Chúa.
20.
Các cộng đoàn tu trì đang hăng say sống tinh thần tông đồ và loan
báo Phúc Âm - dù là chiêm niệm hay hoạt động - là những cộng
đoàn có kinh nghiệm phong phú về việc cầu nguyện. Trong
thời đại của chúng ta, một thời đại có sự thức tỉnh trong
việc tìm kiếm Đấng Siêu Việt, thì các cộng đoàn tu trì có
thể trở thành những nơi ưu tiên, ở đó người ta cảm nghiệm
được những nẻo đường dẫn đến Thiên Chúa.
“Như
một gia đình hiệp nhất nhân danh Thiên Chúa, cộng đoàn tu trì
tự bản chất là nơi mà kinh nghiệm về Thiên Chúa phải đi
tới chỗ trọn vẹn và chuyển thông cho những người khác một
cách đặc biệt” (34), trước hết là cho các anh chị em
của mình trong cộng đoàn.
Những
người nam nữ đã tận hiến cho Thiên Chúa sẽ không gặp
được thách đố lịch sử này, nếu họ không đáp trả việc ”tìm
kiếm Thiên Chúa” nơi những người đồng thời với chúng ta,
những người này rồi có lẽ sẽ quay sang những nẻo đường
lầm lạc khác trong cố gắng tìm thoả mãn cơn khát
Đấng Tuyệt Đối của họ.
Tự
do cá nhân và việc xây dựng tình huynh đệ
21.
”Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, và như vậy là chu toàn luật
Đức Ki-tô” (Gl 6,21). Trong toàn bộ sức sống của đời sống cộng
đoàn, Đức Ki-tô, trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người, trở
thành mẫu mực để xây dựng sự hiệp nhất. Quả thực, Người là
nguồn mạch,
là
mẫu mực và thước đo của giới luật yêu thương : chúng ta
phải thương yêu nhau như chính Người đã yêu thương chúng
ta. Và Người đã yêu chúng ta đến độ hiến mình cho chúng
ta. Đời sống chúng ta là sự chia sẻ đức ái của Chúa
Ki-tô, tình yêu của người đối với Chúa Cha và với anh
em, chị em của Người, một tình yêu quên mình.
Tuy
nhiên, tất cả điều này không nằm trong bản chất ”con người
cũ”, con người muốn sự hiệp thông và hiệp nhất nhưng lại
không muốn, hoặc không dám trả cái giá của sự cam kết dấn
thân. Lộ trình từ ”con người cũ” chỉ muốn đóng kín nơi
chính mình, tới ”con người mới” trao ban chính mình cho người khác,
là một lộ trình dài và khó khăn. Các thánh sáng lập dòng
đã nhấn mạnh một cách thực tế đến những khó khăn và nguy
hiểm của lộ trình, bởi các ngài biết rằng cộng đoàn không thể
tự nhiên mà thành được. Đó không phải là chuyện tự
phát, cũng không thể hoàn thành được trong thời gian
ngắn.
Để
sống với nhau như là anh em và chị em, cần phải có một cuộc
hành trình giải phóng nội tâm đích thực. Khi được giải
thoát khỏi Ai-cập, Ít-ra-en đã trở thành Dân Thiên Chúa
sau một cuộc hành trình dài qua sa mạc dưới sự lãnh đạo
của ông Mô-sê. Cũng vậy, một cộng đoàn tháp nhập vào Giáo
Hội như là Dân Thiên Chúa, phải được xây dựng bằng những
con người mà Chúa Ki-tô đã giải thoát và làm cho có khả
năng yêu thương như Người đã yêu thương, bằng hồng ân
tình yêu giải phóng của Người và chân thành chấp nhận
những người Chúa ban để hướng dẫn chúng ta.
Tình
yêu Chúa Ki-tô đổ đầy tràn lòng chúng ta, thôi thúc chúng ta
yêu thương anh em và chị em mình đến độ nhận lấy những
yếu đuối, những vấn đề và những khó khăn của họ. Tắt một
lời : yêu đến mức trao ban chính mình.
22.
Đức Ki-tô ban cho con người hai điều chắc chắn căn bản :
chắc chắn được yêu vô biên và chắc chắn có khả năng yêu
không giới hạn. Ngoài Thập Giá của Đức Ki-tô, không gì có
thể ban phát đầy đủ và dứt khoát hai điều chắc chắn này
cùng với sự tự do bởi hai điều đó mà ra. Qua đó, những
người tận hiến dần dần thoát khỏi nhu cầu muốn là trung tâm vũ
trụ và chiếm hữu người khác, cũng như thoát khỏi sự
sợ hãi trao ban chính mình cho anh chị em. Đúng hơn, họ
học biết yêu như Đức Ki-tô đã yêu họ, với tình yêu nay
được đổ tràn đầy lòng họ, làm cho họ có khả năng
quên mình và hiến mình như Chúa đã làm.
Nhờ
sức mạnh tình yêu này, cộng đoàn xuất hiện như là một
tập hợp những con người tự do đã được Thập Giá
Đức Ki-tô giải thoát.
23.
Tuy nhiên, lộ trình giải thoát này, lộ trình dẫn tới sự hiệp
thông trọn vẹn và sự tự do của con cái Thiên Chúa, đòi
phải can đảm từ bỏ chính mình trong việc chấp nhận và đón
nhận tha nhân với những giới hạn của họ, khởi đầu từ việc
chấp nhận quyền bính.
Nhiều
người cho rằng điều này tạo nên một trong những điểm
yếu của thời kỳ canh tân trong những năm gần đây. Sự hiểu
biết về đời sống cộng đoàn đã gia tăng, và người ta đã nghiên
cứu những khía cạnh khác nhau của đời sống cộng đoàn. Tuy
nhiên, người ta đã ít quan tâm đến nỗ lực khổ chế, là
điều cần thiết và không thể thay thế cho bất cứ sự giải phóng
nào nhằm biến đổi một nhóm người trở thành một cộng đoàn
huynh đệ Ki-tô giáo.
Hiệp
thông là một hồng ân cũng đòi hỏi lời đáp trả, đòi hỏi
kiên trì học hỏi và kinh nghiệm chiến đấu, hầu thắng vượt
những thái quá trong bản năng và tính thất thường trong các ước
muốn. Lý tưởng cao nhất của cộng đoàn tất nhiên kèm theo
sự hoán cải từ mỗi một thái độ trái ngược với sự hiệp
thông.
Cộng
đoàn mà không có tính cách huyền nhiệm thì không có hồn ;
nhưng cộng đoàn không có khổ chế thì không có xác. Cần phải có
”sự phối hợp” giữa hồng ân của Thiên Chúa và dấn thân cá
nhân để xây dựng sự hiệp thông nhập thể, nói cách khác,
để trao ban một bộ mặt cụ thể cho ân sủng và hồng ân hiệp
thông huynh đệ.
24.
Phải nhìn nhận rằng kiểu lập luận trên gây ra khó khăn đối
với cả người trẻ lẫn người trưởng thành hôm nay. Thường
thường người trẻ đến từ nền văn hoá đánh giá cao tính chủ
quan và tìm kiếm sự tự mãn, trong khi những người trưởng
thành hoặc bị ràng buộc bởi những cơ cấu quá khứ, hoặc
bởi kinh nghiệm chán ngấy những cuộc hội họp kéo dài vô tận,
nguồn gốc của tật dài lời và không xác thực vẫn thịnh
hành cách đây ít năm.
Nếu
quả thực là không thể có sự hiệp thông mà không có sự tự
trao hiến của mỗi phần tử, thì ngay từ đầu, cần phải
dẹp bỏ ảo tưởng cho rằng mọi sự phải đến từ những
người khác, và cần phải giúp mỗi người khám phá ra, với
lòng biết ơn, tất cả những gì mình đã nhận lãnh và thực
sự đang nhận lãnh từ tha nhân. Ngay từ đầu, nhất
thiết phải chuẩn bị để mình không phải chỉ là ”khách
hàng” của cộng đoàn, nhưng trên hết, phải là những
người xây dựng cộng đoàn ; những người có trách nhiệm đối
với sự thăng tiến của anh chị em ; những người cởi mở và
có khả năng lãnh nhận hồng ân của người khác ; những
người có thể giúp đỡ và được giúp đỡ ; những người có thể
thay thế và có thể được thay thế.
Đời
sống cộng đoàn huynh đệ và chia sẻ tự nhiên có sức
cuốn hút người trẻ, nhưng về sau, sự kiên trì trong những
điều kiện thực tế của đời sống có thể trở thành gánh nặng. Do
đó, việc huấn luyện khởi đầu cần giúp người trẻ ý thức
những hy sinh phải có để sống cộng đoàn, để chấp nhận những
hy sinh đó trong mối tương quan huynh đệ vui tươi và chân
thành, và với tất cả những thái độ khác là đặc trưng của
người tự do nội tâm (35). Khi chúng ta chịu bỏ mình vì
anh chị em, thì chúng ta tìm lại được chính mình.
25.
Phải luôn luôn nhớ rằng sự thành toàn người tu sĩ nam hay
nữ đạt được đều qua cộng đoàn của mình. Ai thử cố sống
một cuộc đời tự lập, tách biệt khỏi cộng đoàn, chắc chắn không
gặp được con đường an toàn dẫn tới sự trọn lành của bậc
mình.
Trong
khi xã hội Tây phương cổ võ con người tự lập, con
người có thể một mình đạt được sự thành công cá nhân, con
người theo chủ nghĩa cá nhân tự tín, thì
Tin
Mừng đòi hỏi những con người, giống như hạt lúa mì, phải
biết chết đi cho chính mình để làm nảy sinh đời sống
huynh đệ (36).
Như
thế, cộng đoàn trở thành ”Schola Amoris”, trường dạy yêu
mến, cho người trẻ cũng như cho người trưởng thành -
trong trường học này, mọi người học biết yêu mến Thiên
Chúa, yêu mến người anh em, chị em chung sống với mình, và yêu
mến đồng loại, những người đang rất cần đến lòng thương
xót của Thiên Chúa và tình liên đới huynh đệ.
26.
Lý tưởng cộng đoàn không được làm chúng ta mù quáng
trước sự kiện này là mọi thực tại Ki-tô giáo được xây
dựng trên sự mỏng manh yếu đuối của con người. Chưa có
”một cộng đoàn lý tưởng” : sự hiệp thông hoàn hảo của các
thánh là mục tiêu của chúng ta ở Giê-ru-sa-lem trên trời.
Thời
của chúng ta bây giờ là thời khởi công và kiên trì
xây dựng. Chúng ta luôn luôn có thể cải thiện và cùng
nhau đi tới một cộng đoàn khả dĩ sống trong tha thứ và
yêu thương. Các cộng đoàn không thể tránh được hết
mọi xung đột va chạm. Sự hiệp nhất mà chúng ta phải xây
dựng là sự hiệp nhất được thiết lập bằng cái giá của sự hoà
giải (37). Sự bất toàn trong cộng đoàn không được làm
chúng ta nản chí.
Mỗi
ngày, cộng đoàn lại lên đường, được giáo huấn của các
Tông Đồ nâng đỡ : ”Hãy thương mến nhau với tình huynh đệ
; coi người khác trọng hơn mình” (Rm 12,10) ; ”Hãy
đồng tâm nhất trí với nhau” (Rm 12,16) ; ”Hãy đón nhận
nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em” (Rm 15,7) ; ”Tôi tin
chắc rằng ... anh em ... có khả năng khuyên bảo nhau” (Rm
15,14) ; ”Anh em hãy chờ nhau” (1 Cr 11,33) ; ”Hãy đem lòng yêu
thương mà làm tôi lẫn nhau” (Gl 5,13) ; “Hãy an ủi nhau”
(1 Tx 5,11) ; ”Hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau”
(Ep 4,2) ; ”Phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho
nhau” (Ep 4,32) ; ”Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy
tùng phục lẫn nhau” (Ep 5,21) ; ”Hãy cầu nguyện cho nhau” (Gc 5,16)
; ”Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau” (1
Pr 5,5) ; ”Chúng ta được hiệp thông với nhau” (1 Ga 1,7)
; ”Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí ... nhất là cho những
anh em cùng trong đại gia đình đức tin” (Gl 6,9-10).
27.
Có lẽ hữu ích khi nhắc lại rằng : để nuôi dưỡng sự
hiệp thông tâm trí giữa những người được gọi chung sống
trong một cộng đoàn, nhất thiết phải trau dồi những đức
tính cần có trong tất cả các mối quan hệ nhân bản : sự
kính trọng, lòng tốt, sự chân thành, tự kiềm chế, lịch
thiệp, biết khôi hài và tinh thần chia sẻ.
Những
tài liệu mới đây của Huấn quyền có nhiều gợi ý và chỉ dẫn
phong phú cho đời sống cộng đoàn như : đơn sơ vui vẻ
(38), thẳng thắn và tín nhiệm lẫn nhau (39), có khả năng
đối thoại (40), và thành tâm chấp nhận kỷ luật tốt lành
của cộng đoàn (41).
28.
Cuối cùng, chúng ta không được quên rằng, sự bình an và hoan
lạc trong đời sống chung là những dấu chỉ của Nước Thiên
Chúa. Niềm vui sống cả giữa những khó khăn gặp phải trên
hành trình thiêng liêng và nhân bản, và cả giữa
những phiền muộn hàng ngày cũng đã là một phần của Nước
Trời. Niềm vui này là hoa trái của Chúa Thánh Thần, và
bao gồm một đời sống đơn giản và kết cấu đơn điệu
thường nhật. Tình huynh đệ không có niềm vui là tình
huynh đệ đang chết ; sớm muộn, các thành viên sẽ bị
cám dỗ đi tìm ở nơi khác điều mà họ không thể tìm thấy
trong cộng đoàn của mình. Một tình huynh đệ đầy niềm vui
là ân huệ từ trên ban cho anh em, chị em là những
người biết cầu xin và biết chấp nhận nhau, phó thác cho đời sống
huynh đệ, tin tưởng vào hành động của Chúa Thánh Thần. Do
đó, lời Thánh vịnh đã được ứng nghiệm : ”Ngọt ngào tốt
đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau ... Nơi đây
ân huệ Chúa ban, chính là sự sống chứa chan muôn đời” (Tv 132,1-3) ;
”Bởi vì, khi chung sống với nhau như anh em, họ được liên
kết trong sự hiệp nhất của Giáo Hội ; họ chỉ có một tâm
hồn trong đức ái, một ý muốn” (42).
Chứng
từ niềm vui là sự lôi cuốn mãnh liệt vào đời sống tu trì,
là nguồn phát sinh những ơn gọi mới, và khích lệ bền
đỗ. Điều rất quan trọng là phải nuôi dưỡng niềm vui như
thế trong cộng đoàn tu trì : làm việc quá sức có thể huỷ
diệt niềm vui, nhiệt tình quá độ vì những nguyên do
nào đó có thể đưa một số người tới chỗ quên lãng niềm
vui, việc không ngừng tự phân tích căn tính và tương lai
của mình cũng có thể che khuất niềm vui.
Có
thể vui sống với nhau ; dành thời gian cho việc giải trí cá nhân và
tập thể ; thỉnh thoảng tạm dừng công việc một chút ; chia
sẻ niềm vui nỗi buồn của anh em, chị em mình ; tin
tưởng dấn thân làm việc tông đồ ; trắc ẩn trước mọi tình
huống ; nhìn về ngày mai với niềm hy vọng gặp gỡ Thiên
Chúa mọi lúc và mọi nơi : đó chính là những nhân tố nuôi
dưỡng sự thanh thản, bình an và niềm vui : những nhân tố này trở
thành sức mạnh trong hoạt động tông đồ.
Niềm
vui là chứng từ rực rỡ cho phẩm chất Tin Mừng của cộng
đoàn tu trì ; nó là đích điểm của một cuộc hành trình đầy
gian lao, nhưng vẫn có thể hoàn tất vì được nâng đỡ nhờ
lời cầu nguyện : ”Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,
cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu
nguyện” (Rm 12,12).
Truyền
thông để cùng nhau thăng tiến
29.
Trong công cuộc canh tân vào những năm gần đây, vấn đề truyền
thông được coi là một trong những yếu tố nhân bản càng ngày
càng có tầm quan trọng đối với đời sống cộng đoàn tu trì.
Nhu cầu nâng cao đời sống huynh đệ trong cộng đoàn
được cảm nhận sâu xa, kèm theo một nhu cầu tương ứng với
sự truyền thông vừa rộng lớn, vừa mạnh mẽ hơn.
Để
trở nên anh em, chị em với nhau, cần phải hiểu biết nhau. Để
hiểu biết nhau thì điều rất quan trọng là phải truyền
thông nhiều hơn và sâu sắc hơn. Ngày nay, người ta đã chú
ý hơn tới những khía cạnh khác của sự truyền thông, mặc dù hình
thức và cấp độ có thể thay đổi giữa hội dòng này với hội
dòng khác, giữa miền này với miền kia.
30.
Truyền thông ở trong nội bộ các hội dòng đã phát triển
đáng kể. Những cuộc hội họp thường lệ giữa những thành
phần thuộc các cấp bậc khác nhau, cấp trung ương, cấp
miền, cấp tỉnh dòng đã gia tăng : các bề trên thường gửi
những thư từ và nhắc nhở, và những cuộc thăm viếng các cộng
đoàn thường xuyên hơn. Việc xuất bản các thông tin và nội
san định kỳ cũng phổ biến hơn.
Loại
truyền thông rộng rãi này ở những cấp độ khác nhau tương
ứng với đặc tính riêng của từng hội dòng, thường tạo nên
những mối liên hệ gần gũi hơn, nuôi dưỡng tinh thần gia
đình và sự chia sẻ mối quan tâm của toàn thể hội dòng,
giúp nhạy cảm hơn đối với các vấn đề chung, và đem các tu sĩ
lại gần nhau hơn quanh sứ vụ chung của họ.
31.
Những cuộc hội họp thường lệ ở cấp độ cộng đoàn,
thường theo nhịp độ hàng tuần, cũng tỏ ra rất hữu ích ;
những buổi gặp gỡ này giúp các thành viên chia sẻ các vấn đề
liên quan đến cộng đoàn, đến hội dòng, đến Giáo Hội, và
các tài liệu quan trọng của Giáo Hội. Chúng tạo cơ hội
để lắng nghe nhau, chia sẻ những ý nghĩ riêng của mỗi
người, nhìn lại và đánh giá những kinh nghiệm quá khứ, và cùng
nhau suy nghĩ và thảo kế hoạch.
Những
cuộc họp mặt như thế đặc biệt cần thiết cho sự thăng
tiến và phát triển đời sống huynh đệ, nhất là trong những
cộng đoàn rộng lớn. Phải dành riêng thời giờ cho mục đích
này và tránh tất cả những công việc khác. Thêm vào
việc quan tâm tới đời sống cộng đoàn, những cuộc hội họp
này cũng quan trọng để thực thi tinh thần đồng trách nhiệm và sắp
đặt công việc không những trong bối cảnh của đời sống
cộng đoàn, mà còn trong cơ cấu rộng lớn hơn của đời
sống tu trì, đời sống Giáo Hội và đời sống thế giới mà
chúng ta được sai đến thi hành sứ vụ. Đây là con đường mà
mỗi cộng đoàn phải theo đuổi, thích nghi nhịp điệu và
đường hướng với chiều kích của cộng đoàn và những dấn
thân của các phần tử, đồng thời tôn trọng lối sống riêng
của các cộng đoàn chiêm niệm.
32.
Nhưng còn hơn thế nữa. Ở nhiều nơi người ta cảm thấy
có nhu cầu truyền thông mật thiết hơn giữa các tu sĩ
chung sống trong cùng một cộng đoàn. Sự thiếu sót hay giảm
sút truyền thông thường dẫn tới sự suy giảm tình huynh đệ
; nếu chúng ta biết ít hay không biết gì về đời sống của
anh em hay chị em mình, thì họ sẽ là những người xa lạ
với chúng ta, mối liên hệ sẽ trở nên vô danh, đồng thời
tạo nên những vấn đề thực tế của cảnh cô lập và cô đơn.
Một số cộng đoàn phàn nàn về phẩm chất nghèo nàn trong
việc chia sẻ cơ bản những tài sản tinh thần : truyền thông chỉ
diễn ra chung quanh những vấn đề và những khó khăn thứ
yếu mà hiếm khi chia sẻ về những gì sống động và cốt lõi
của hành trình thánh hiến.
Những
hậu quả này có thể tệ hại, vì lúc đó kinh nghiệm
thiêng liêng một cách vô tình sẽ mang màu sắc cá nhân.
Tâm trạng tự mãn trở nên quan trọng hơn ; thái độ thiếu
nhạy cảm với những phát triển của người khác ; và rồi dần
dần người ta đi tìm kiếm những mối quan hệ có ý nghĩa ở
bên ngoài cộng đoàn.
Vấn
đề này cần được đề cập tới một cách rõ ràng. Một mặt, nó
đòi hỏi một đường lối khéo léo và thận trọng mà
không phải dùng đến áp lực ; nhưng mặt khác, cũng đòi hỏi
lòng can đảm và óc sáng tạo, tìm kiếm những cách thức và phương
pháp khả dĩ giúp mọi người học chia sẻ những hồng ân của
Thần Khí cách đơn sơ và đầy tình huynh đệ, để những hồng
ân này có thể thực sự thuộc về tất cả và là phúc lợi cho
tất cả (x. 1 Cr 12,7).
Sự
truyền thông nảy sinh nhất là trong việc chia sẻ các hồng ân của
Thần Khí, chia sẻ đức tin và trong đức tin, ở đâu chúng
ta càng chia sẻ những điều cốt lõi và sống động, ở đó mối
dây huynh đệ càng lớn mạnh. Loại truyền thông này có thể
hữu ích để học cách chia sẻ, cho phép các phần tử,
trong tác vụ tông đồ riêng của họ, ”tuyên xưng đức tin”
qua những ngôn từ đơn giản và sáng sủa mà mọi người đều
có thể hiểu biết và yêu chuộng.
Có
nhiều cách thức chia sẻ và truyền thông các ân huệ thiêng liêng.
Ngoài những cách đã nêu lên (chia sẻ Lời Thiên Chúa và cảm
nghiệm về Thiên Chúa, chia sẻ nhận định chung, những dự
phóng chung) (43), chúng ta nên nhắc đến việc sửa lỗi
huynh đệ, kiểm điểm đời sống và những hình thái đặc
thù theo truyền thống. Đây là những cách thế cụ thể nhằm
phục vụ người khác và đổ tràn vào cộng đoàn những hồng ân
mà Thánh Thần ban tặng dồi dào nhằm phát triển cộng đoàn
và sứ vụ của cộng đoàn trong thế giới.
Ngày
nay, tất cả những điều này có tầm quan trọng hơn một khi các
cộng đoàn thường bao gồm các tu sĩ khác nhau về tuổi tác
và chủng tộc, các phần tử được đào tạo với nền giáo dục
về văn hoá và thần học khác nhau, những tu sĩ đã có những
kinh nghiệm khá dị biệt trong những năm biến động và đa
nguyên này.
Không
có đối thoại và lắng nghe, các phần tử trong cộng đoàn
có nguy cơ sống một cuộc đời kề cận hoặc song hành, một
khoảng cách xa với lý tưởng huynh đệ.
33.
Mỗi hình thức truyền thông đều bao hàm những đường lối
và những khó khăn tâm lý đặc biệt, cũng có thể được sự
hỗ trợ tích cực của các khoa học nhân văn. Chẳng hạn, một
số cộng đoàn đã lợi dụng sự giúp đỡ của các chuyên gia về
truyền thông, và các chuyên viên trong lãnh vực tâm lý
hay xã hội.
Đây
là những biện pháp ngoại lệ cần được đánh giá một cách
thận trọng, và chúng có thể được sử dụng hạn chế để phá
đổ những bức tường ngăn cách đôi khi được dựng lên ngay
trong cộng đoàn. Các kỹ thuật nhân loại này hữu ích nhưng
không đủ. Tất cả chúng ta phải quan tâm tới phúc lợi của
anh em, chị em mình, phát triển khả năng phúc âm để đón nhận
được từ tha nhân tất cả những gì họ muốn hiến tặng và chuyển
trao, và tất cả những gì họ thực sự chuyển trao bằng chính
đời sống của họ.
Anh
em hãy ”có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm
hồn, cùng một ý hướng như nhau ... Hãy lấy lòng khiêm nhường mà
coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích riêng
cho mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.”
Những quan hệ hỗ tương của anh em phải đặt nền tảng trên
sự thật này là anh em đã được hiệp nhất với Đức Ki-tô (x. Pl
2,2-5).
Trong
bầu khí như vậy, những kỹ thuật và những đường hướng
khác nhau nhằm sự truyền thông thích hợp với đời sống tu
trì có thể giúp thăng tiến tình huynh đệ.
34.
Ảnh hưởng đáng kể của các phương tiện truyền thông
đại chúng đối với đời sống và não trạng hiện đại cũng có
hiệu quả trên các cộng đoàn tu trì, và thường xuyên tác động
tới sự truyền thông nội bộ.
Ý
thức được ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại
chúng, cộng đoàn nên học sử dụng để cá nhân và cộng đoàn
được thăng tiến, với sự trong sáng của Phúc Âm và tự do
nội tâm của những con người đã được biết Đức Ki-tô (x. Gl
4,17-23). Những phương tiện truyền thông đề xuất, và thường
áp đặt, một não trạng hay một lối sống phản lại Tin Mừng.
Về vấn đề này, ở nhiều nơi, người ta mong muốn được đào tạo kỹ
lưỡng hơn để tiếp nhận và sử dụng các phương tiện truyền
thông một cách vừa có phê phán vừa hữu ích. Tại sao không
làm cho các phương tiện truyền thông trở thành đối tượng
để lượng giá, để phân định và để thảo kế hoạch trong các
cuộc hội họp định kỳ của cộng đoàn ?
Đặc
biệt, khi truyền hình trở thành hình thức giải trí duy nhất thì những mối
quan hệ giữa các thành viên trong cộng đoàn bị cản trở,
thậm chí bị chặn đứng, sự truyền thông huynh đệ bị giới
hạn, và chính đời sống thánh hiến cũng có thể bị tổn
thương.
Cần
phải có sự quân bình đúng mức : việc sử dụng điều độ và
thận trọng các phương tiện truyền thông đại chúng (44) cùng
với sự cân nhắc của cộng đoàn, có thể giúp cộng đoàn hiểu biết
sự phức tạp của thế giới văn hoá hơn, tiếp nhận các
phương tiện truyền thông với ý thức và cái nhìn sáng
suốt, và cuối cùng, đánh giá ảnh hưởng của các phương tiện ấy
trong tương quan với các tác vụ khác nhau khi phục vụ Tin Mừng.
Để
phù hợp với việc lựa chọn bậc sống đặc biệt biểu thị bằng
sự cách biệt thế gian, các cộng đoàn chiêm niệm nên
tự buộc mình nhiều hơn vào việc duy trì một bầu khí hồi
tâm, được hướng dẫn bởi những quy tắc xác định trong hiến
pháp riêng về việc sử dụng các phương tiện truyền thông
xã hội.
Cộng
đoàn tu trì và sự thăng tiến cá nhân
35.
Vì cộng đoàn tu trì là ”Trường dạy yêu mến” (Schola Amoris) giúp con
người lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và đối
với anh chị em, nên cũng là nơi cho con người được triển
nở. Con đường triển nở là một con đường cam go, vì đòi
hỏi sự từ bỏ những điều nào đó có giá trị cao (45), nhưng
không phải là không thể thực hiện được. Đông đảo các
thánh nam nữ và những khuôn mặt diệu kỳ của các tu sĩ nam
nữ minh chứng rằng sự thánh hiến cho Đức Ki-tô ”không tạo
nên một chướng ngại nào cho sự phát triển con người thực
sự, nhưng tự bản chất là một phúc lợi tột bực cho sự phát
triển đó” (46).
Con
đường tiến đến sự trưởng thành nhân bản, điều tiên
quyết cho đời sống Phúc Âm sáng ngời, là một tiến trình
không có giới hạn, vì nó bao hàm sự gia tăng liên tục
không những các giá trị tinh thần, mà cả những giá trị
thuộc lãnh vực xã hội, văn hoá và tâm lý (47).
Thực
tế, trong những năm gần đây, những thay đổi lớn trong văn
hoá và phong tục hướng đến những thực tại vật chất nhiều
hơn là những giá trị tinh thần. Điều đó làm cho chúng ta
thấy cần phải quan tâm đến một số lãnh vực mà ngày nay
con người hình như dễ bị tổn thương một cách đặc biệt.
36.
Căn tính
Tiến
trình trưởng thành diễn ra trong sự đồng hoá mình với
lời mời gọi của Thiên Chúa. Sự kém ý thức về căn tính có
thể dẫn tới ý tưởng sai lầm về sự hoàn thiện bản thân,
đặc biệt là vào những thời điểm khó khăn, với đòi hỏi
thái quá là phải có những thành quả tích cực và được
người khác chấp nhận, sợ hãi quá đáng về sự bất toàn, và
chán nản do thất bại gây ra.
Căn
tính của người thánh hiến tuỳ thuộc vào sự trưởng
thành tâm linh ; đây là công việc của Chúa Thánh Thần,
Đấng thúc đẩy chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức
Ki-tô, bằng cách thức đặc biệt được ban tặng qua ”đoàn sủng
sáng lập, đoàn sủng này là hình thức sống Tin Mừng của các phần tử
trong hội dòng” (48). Vì lý do đó, rất cần sự giúp đỡ của
người hướng dẫn tâm linh, người hiểu biết sâu xa và
tôn trọng linh đạo và sứ vụ của hội dòng. Một người như
thế sẽ ”phân định được hành động của Thiên Chúa, đồng
hành với tu sĩ trong đường lối của Thiên Chúa, nuôi dưỡng
đời sống bằng giáo thuyết vững vàng và bằng thực hành cầu
nguyện” (49). Sự đồng hành này đặc biệt cần thiết trong
giai đoạn đào tạo sơ khởi, nhưng vẫn ích lợi trong suốt
cuộc đời, để nuôi dưỡng ”sự thăng tiến hướng đến sự
sung mãn của Đức Ki-tô”.
Sự
trưởng thành về văn hoá cũng giúp con người đương đầu với
những thách đố của sứ vụ nhờ tiếp nhận những phương thế
cần thiết để phân định những trào lưu tiến hoá và thực
hiện những đáp trả tương xứng, trong đó Tin Mừng luôn
được đưa ra như một đề xướng để lựa chọn trước những
gọi mời của trần thế, Tin Mừng hội nhập những sức mạnh
tích cực của trần thế và thanh tẩy chúng khỏi men ác
thần.
Nhờ
động lực này, con người thánh hiến và cộng đoàn tu trì
là một cách bày tỏ Tin Mừng, một biểu lộ sự hiện diện của
Đức Ki-tô trong thế giới (50).
37.
Tình cảm
Đời
sống huynh đệ cộng đoàn đòi hỏi mọi phần tử phải có sự
quân bình về tâm lý, là điều kiện để đạt được sự trưởng
thành về tình cảm. Như đã nói ở trên, một yếu tố nòng cốt
của sự trưởng thành là sự tự do về mặt tình cảm, giúp
những người thánh hiến có thể yêu mến ơn gọi của mình
và yêu mến sao cho phù hợp với ơn gọi. Chính sự tự do và sự trưởng
thành này giúp chúng ta sống đời sống tình cảm một cách
đúng đắn cả ở bên trong lẫn bên ngoài cộng đoàn.
Yêu
mến ơn gọi của mình, nhận thức ơn gọi đem lại ý nghĩa thật cho
cuộc sống, và yêu mến sự thánh hiến như là một thực tại đích
thực, đẹp đẽ và tốt lành, đem lại chân thiện mỹ cho cuộc
sống của mình, tất cả những điều đó làm cho con người trở
nên mạnh mẽ, tự lập và an toàn trong căn tính của mình,
không cần đến những hình thức nâng đỡ và bù trừ khác, đặc
biệt trong lãnh vực tình cảm. Tất cả những điều này
củng cố mối dây liên kết con người tận hiến với những
người cùng chia sẻ ơn gọi mình, nam hoặc nữ. Trước hết và
trên hết, chính là với họ, mà người tận hiến cảm thấy
được kêu gọi để sống liên đới trong tình huynh đệ và tình
bằng hữu.
Yêu
mến ơn gọi của mình là yêu mến Giáo Hội, là yêu mến hội
dòng của mình, và cảm nghiệm cộng đoàn như là gia đình
riêng của mình.
Yêu
mến phù hợp với ơn gọi của mình là yêu mến theo cách
thức của một người, mà trong mỗi một mối tương quan nhân
bản, ước mong trở nên dấu chỉ rõ ràng của tình yêu Thiên
Chúa, không xâm lấn cũng không chiếm hữu, nhưng yêu
thương và ước mong điều tốt lành cho kẻ khác với lòng
nhân từ của Thiên Chúa.
Vì
vậy, cần có sự huấn luyện đặc biệt trong lãnh vực tình
cảm để giúp hoà hợp khía cạnh nhân loại với khía cạnh thiêng
liêng cách đặc biệt hơn. Về phương diện này, những nguyên
tắc chỉ đạo trong văn kiện ”Những chỉ dẫn về việc huấn
luyện trong các hội dòng” (51) liên quan đến việc phân định
”sự quân bình tình cảm, đặc biệt là sự quân bình về tính
dục” và ”khả năng sống trong cộng đoàn” là những điểm đặc
biệt thích hợp.
Tuy
nhiên, những khó khăn trong lãnh vực này thường là âm
hưởng từ những vấn đề nảy sinh trong những lãnh vực khác
: tình cảm và tính dục mang tính cách tự ái và ấu trĩ
hoặc bị dồn nén khắt khe, đôi khi có thể là hậu quả
của những kinh nghiệm tiêu cực trước khi gia nhập cộng
đoàn, nhưng cũng có thể là hậu quả của những khó khăn
trong cộng đoàn hay trong tác vụ tông đồ. Như thế, một
đời sống đậm đà và ấm áp tình huynh đệ, một cuộc sống
”mang đỡ gánh nặng” của anh chị em bị tổn thương đang cần
sự trợ giúp là điều đặc biệt quan trọng.
Trong
khi cần có một sự trưởng thành nào đó để có thể sống cộng
đoàn, thì một đời sống huynh đệ thân ái cũng cần thiết để
tu sĩ đạt được sự trưởng thành. Ở đâu các phần tử trong
cộng đoàn nhận thấy nơi anh em hay chị em mình sự trưởng
thành tình cảm đã suy giảm, thì cộng đoàn phải đáp ứng
bằng một tình yêu phong phú và nhân bản, giống như tình yêu
của Chúa Giê-su và của nhiều tu sĩ thánh thiện, một tình yêu chia
sẻ những lo âu lẫn vui mừng, khó khăn lẫn hy vọng, với
tình yêu nồng ấm đó, một con tim mới biết cách chấp nhận
toàn thể con người. Tình yêu như thế - một tình yêu biết quan tâm và
tôn trọng, vô vị lợi hơn là chiếm hữu - sẽ làm cho tình
yêu Thiên Chúa nên rất gần gũi : đó là tình yêu đã khiến
Con Thiên Chúa công bố qua thập giá rằng, chúng ta không
được nghi ngờ là chúng ta đã được yêu thương bởi Đấng là
Tình Yêu.
38.
Những khó khăn
Một
cơ hội đặc biệt cho sự thăng tiến con người và sự
trưởng thành Ki-tô hữu là việc sống với những con người
đau khổ, những người cảm thấy không thoải mái trong cộng đoàn,
và vì vậy, họ là duyên cớ gây đau khổ cho người khác và
gây xáo trộn trong đời sống cộng đoàn.
Trước
tiên, chúng ta phải tìm nguồn gốc của sự đau khổ đó.
Đau khổ có thể xảy ra do khiếm khuyết về tính tình, những
ràng buộc hình như quá nặng nề, những thiếu sót
nghiêm trọng trong việc đào tạo, những biến chuyển quá
nhanh trong những năm gần đây, những hình thức cai trị
quá độc đoán, hoặc những khó khăn về tâm linh.
Có
thể có một vài tình huống mà người có thẩm quyền phải
nhắc nhở các phần tử của mình rằng : đời sống chung đôi
khi đòi hỏi sự hy sinh và có thể trở thành một hình thức sám
hối rất quan trọng, maxima poenitentia.
Trong
vài trường hợp, cần nhờ đến các khoa học xã hội, đặc biệt
những hoàn cảnh mà cá nhân rõ ràng không có khả năng
để sống đời sống cộng đoàn do thiếu trưởng thành và yếu kém về
tâm lý, hoặc do những nhân tố có tính cách bệnh lý nhiều
hơn.
Sự
can thiệp như vậy, không những tỏ ra hữu ích trong giai đoạn
điều trị - trong những trường hợp ít nhiều rõ ràng là tâm
bệnh - mà còn là một biện pháp ngăn ngừa, giúp ứng sinh
chọn lựa cho đích đáng, và cũng để giúp đỡ đội ngũ đào
tạo trong vài trường hợp liên quan đến những vấn đề sư
phạm và huấn luyện đặc biệt (52).
Trong
tất cả mọi trường hợp, khi chọn lựa các chuyên gia, phải
ưu tiên dành cho những người có đức tin và những người
có kinh nghiệm dồi dào về đời sống tu trì và những năng động
lực của đời tu. Vì thế, nếu các chuyên gia này lại chính
là các tu sĩ nam nữ sống đời thánh hiến thì tốt hơn.
Sau
cùng, việc sử dụng những phương pháp như thế sẽ chỉ có hiệu
quả thật sự nếu được áp dụng một cách giới hạn chứ
không phải phổ biến, bởi vì các biện pháp sư phạm tâm lý không
giải quyết được mọi vấn đề và vì vậy ”không thể thay thế
cho việc linh hướng thực sự được” (53).
Từ ”tôi” đến ”chúng
ta”
39. Sự tôn trọng con
người, như Công Đồng và nhiều văn kiện khác sau đó khuyến
cáo (54), đã có ảnh hưởng tích cực đến lối sống của các
cộng đoàn. Tuy nhiên chủ nghĩa cá nhân đồng thời đang bành
trướng với cường độ mạnh hay yếu tuỳ từng miền trên thế
giới, dưới nhiều hình thức khác nhau : nhu cầu muốn đặt mình
làm trung tâm ; nhấn mạnh quá mức đến sự thoải mái cá nhân
dù là thể lý, tâm lý hay nghề nghiệp ; dành ưu tiên cho
công việc cá nhân hay cho một công việc có uy tín và
”nổi bật” ; ưu tiên tuyệt đối cho những khát vọng và
đường lối riêng của cá nhân mà không quan tâm đến những
người khác và cũng không đếm xỉa gì tới cộng đoàn.
Mặt khác, cần phải tìm
kiếm một sự quân bình chính đáng - một điều không phải
luôn luôn dễ dàng đạt được - giữa công ích và sự tôn
trọng con người, giữa những đòi hỏi và nhu cầu của cá nhân với
của cộng đoàn, giữa đoàn sủng cá nhân và sứ vụ tông đồ
cộng đoàn. Sự quân bình đó phải tránh sức mạnh phân rẽ
của chủ nghĩa cá nhân lẫn khía cạnh cào bằng của chủ nghĩa
cộng đồng. Cộng đoàn tu sĩ là nơi diễn ra cuộc vượt qua
hằng ngày và kiên trì từ cái ”tôi” đến ”chúng ta”, từ
công tác của tôi đến công tác được uỷ thác cho cộng
đoàn ; từ việc tìm kiếm ”những điều thuộc về tôi” đến
việc tìm kiếm ”những điều thuộc về Đức Ki-tô”.
Trong chiều hướng này,
cộng đoàn tu trì trở thành nơi hằng ngày chúng ta học
nhận lãnh một tinh thần mới, giúp chúng ta sống trong hiệp thông
huynh đệ nhờ sự phong phú của những hồng ân khác nhau, và
đồng thời cổ võ việc quy tụ những hồng ân này hướng đến
tình huynh đệ và hướng đến tinh thần đồng trách nhiệm trong
dự phóng tông đồ.
40. Để thực hiện một
”hoà điệu” cộng đoàn và tông đồ như vậy, cần phải :
a. cùng nhau tạ ơn
Thiên Chúa vì hồng ân ơn gọi và sứ vụ chung, một hồng ân
trổi vượt mọi sự khác biệt cá nhân và văn hoá ; cổ võ
thái độ chiêm niệm sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng
đã gửi đến cộng đoàn những anh chị em đặc biệt mà mỗi
người đều là món quà cho người khác ; ngợi khen Thiên
Chúa về những gì mà mỗi anh chị em chia sẻ bằng sự hiện
diện và lời của Đức Ki-tô ;
b. cổ võ sự tôn trọng
lẫn nhau nhờ đó chúng ta chấp nhận cuộc hành trình chậm
chạp của những phần tử yếu đuối hơn, đồng thời không bóp
nghẹt sự phát triển những cá nhân phong phú hơn ; một sự tôn trọng
nuôi dưỡng óc sáng tạo nhưng cũng đòi hỏi trách nhiệm với người
khác và với sự liên đới ;
c. nhắm vào sứ vụ
chung : mỗi hội dòng có một sứ vụ mà tất cả mọi người
phải cộng tác vào tuỳ theo tài năng riêng của mình.
Con đường của những người nam và nữ tận hiến hệ tại
chính sự hiến dâng dần dần cho Thiên Chúa tất cả những gì
họ có, và tất cả con người họ, cho sứ vụ của gia đình tu
trì ;
d. nên nhớ rằng sứ vụ
tông đồ trước hết được tín thác cho cộng đoàn, và điều
này thường đòi hỏi thi hành những công việc phù hợp với
hội dòng. Sự cống hiến cho tác vụ tông đồ loại này giúp
người tận hiến trưởng thành và lớn lên trong đường lối thánh
thiện đặc thù của mỗi người ;
đ. nên biết rằng người
tu sĩ, khi vì vâng lời mà nhận lãnh các sứ vụ cá nhân,
thì phải nghĩ là mình được cộng đoàn sai đi. Về phần
mình, cộng đoàn sẽ phải thường xuyên giúp họ cập nhật hoá
và hoà nhập họ vào những cuộc duyệt xét những dấn thân
tông đồ và cộng đoàn.
Trong thời gian đào
tạo, dù có thiện chí thế nào chăng nữa, một người tận
hiến có thể tỏ ra thiếu khả năng hội nhập những hồng ân cá nhân
vào tình huynh đệ và sứ vụ chung. Trong những trường
hợp như thế, có lẽ cần phải đặt câu hỏi : ”Các hồng ân
của Thiên Chúa trong người này có xây dựng sự hiệp nhất
và đào sâu sự hiệp thông không ? Nếu có thì có thể đón nhận họ.
Nếu không thì dù các hồng ân nơi chính họ có vẻ tốt đẹp
thế nào chăng nữa, hoặc cho dù có vẻ là đáng ao ước đối với một
vài phần tử, thì họ vẫn không thích hợp cho hội dòng này.
Thực là không khôn ngoan khi phải chấp nhận những
đường hướng quá khác nhau mà không đặt nền tảng vững chắc
trên sự hiệp nhất của chính hội dòng” (55).
41. Những năm gần đây
đã gia tăng một số những cộng đoàn nhỏ, đặc biệt vì lý do
làm việc tông đồ. Những cộng đoàn này có thể cũng khai
triển những mối liên hệ mật thiết hơn giữa các tu sĩ, kinh
nguyện được chia sẻ một cách sâu đậm hơn, và đảm
nhận trách nhiệm một cách hỗ tương và huynh đệ hơn (56).
Nhưng có vài động lực
cần phải được xét lại, như giống nhau về sở thích hoặc
giống nhau về não trạng. Trong hoàn cảnh này, cộng đoàn
dễ trở nên khép kín lại chính mình, và đi tới chỗ chọn
lựa những phần tử riêng cho cộng đoàn, bằng cách chấp
nhận hoặc loại bỏ những anh em hay chị em do bề trên gửi
tới. Điều này trái ngược với chính bản chất và chức năng
của cộng đoàn tu trì như một dấu chỉ. Ngoài việc làm suy
yếu tính linh hoạt trong việc tông đồ, sự thuần nhất do
chọn lựa sẽ làm suy yếu sức mạnh Thần Khí của cộng đoàn, và
làm mất đi thực tại tinh thần, thực tại này điều khiển
cộng đoàn bằng sức mạnh của mình như một chứng tá.
Cố gắng chấp nhận lẫn
nhau và cam kết vượt qua những khó khăn, những đặc điểm
của các cộng đoàn không thuần nhất, cho thấy tính
siêu việt trong lý do làm cho cộng đoàn hiện hữu, đó là
sức mạnh của Thiên Chúa, một sức mạnh ”tỏ hiện trong sự yếu
đuối” (2 Cr 12,9-10).
Chúng ta sống với nhau
trong cộng đoàn không phải vì chúng ta đã chọn lựa người khác,
nhưng vì chúng ta được Thiên Chúa chọn lựa.
42. Trong khi nền văn
hoá mang nhãn hiệu Tây phương có thể dẫn đến chủ nghĩa cá nhân
gây khó khăn cho đời sống chung huynh đệ, thì những
nền văn hoá khác có thể đưa đến chủ nghĩa cộng đồng khó
lòng chấp nhận những dị biệt cá nhân. Tất cả mọi hình
thức văn hoá đều cần được phúc âm hoá.
Sự hiện diện của các
cộng đoàn tu trì - qua tiến trình hoán cải, bước vào đời
sống huynh đệ là nơi những cá nhân sẵn sàng phục vụ anh
chị em mình, và là nơi mà ”tập thể” nâng cao cá nhân - là dấu
chỉ sức mạnh biến đổi của Tin Mừng và của Nước Thiên Chúa
đang đến.
Các hội dòng quốc tế
trong đó có nhiều phần tử thuộc những nền văn hoá khác
biệt sống chung với nhau, có thể góp phần vào việc
trao đổi những ân điển, qua đó họ làm phong phú và sửa
đổi lẫn nhau trong ước nguyện chung để càng ngày càng
sống Tin Mừng tự do cá nhân và hiệp thông huynh đệ một
cách sâu đậm hơn.
Trở thành cộng đoàn
nhờ việc huấn luyện liên tục
43. Việc canh tân cộng
đoàn đã đem lại lợi ích lớn lao nhờ việc huấn luyện liên
tục. Được khuyến cáo và trình bày đại cương trong văn
kiện ”Những chỉ dẫn về việc đào tạo trong các hội dòng (57),
tất cả những người có trách nhiệm trong các hội dòng
đều coi việc huấn luyện liên tục là vấn đề có tầm quan
trọng sinh tử đối với tương lai.
Mặc dầu có vài điều
không chắc chắn (như khó khăn trong việc tổng hợp những khía
cạnh khác biệt, khó khăn trong việc gây ý thức nơi mọi
phần tử của cộng đoàn, mải mê với những đòi hỏi của công
tác tông đồ, và một sự quân bình đúng mức giữa hoạt động
và việc đào tạo), đa số các hội dòng, ở cấp trung ương
lẫn địa phương, đều đã có các sáng kiến.
Một trong các mục tiêu
của những sáng kiến như vậy là thành lập các cộng đoàn
trưởng thành, có tinh thần phúc âm, có tình huynh đệ,
và có khả năng tiếp tục việc huấn luyện liên tục trong
đời sống thường nhật. Cộng đoàn tu trì là nơi những chỉ dẫn
tổng quát được thi hành một cách cụ thể, qua những cố
gắng hằng ngày kiên nhẫn và bền bỉ. Đối với mỗi người,
cộng đoàn tu trì là nơi và là khung cảnh tự nhiên cho quá trình
phát triển, trong đó tất cả mọi người trở nên đồng trách
nhiệm đối với sự phát triển của người khác. Cộng đoàn tu
trì cũng là nơi mà ngày qua ngày, các phần tử giúp
đỡ nhau như những con người đã được thánh hiến, có một
đoàn sủng chung, nhằm đáp ứng nhu cầu của những người hèn
kém nhất và những thách đố của xã hội mới.
Đứng trước những khó
khăn, việc đáp ứng thường khác nhau, và gây những hậu quả
hiển nhiên cho đời sống cộng đoàn. Từ đó phát sinh nhận
thức rằng một trong những thách đố mạnh mẽ ngày nay là
việc hoà nhập các phần tử, được đào tạo khác nhau và có
quan điểm tông đồ khác nhau, vào trong một cộng đoàn, để những
khác biệt này không trở thành những trường hợp xung
khắc cho bằng là những cơ hội làm phong phú lẫn nhau.
Trong một khung cảnh đa dạng và có thể thay đổi như thế,
thì vai trò quy tụ của những người có trách nhiệm với
cộng đoàn trở nên quan trọng hơn bao giờ hết ; cần phải hỗ trợ
họ một cách đặc biệt bằng lãnh vực huấn luyện liên tục,
theo những đòi hỏi trong phận sự của họ là thúc đẩy đời sống
huynh đệ và đời sống tông đồ của cộng đoàn.
Dựa trên kinh nghiệm
của những năm gần đây, có hai khía cạnh cần để ý đặc biệt
: chiều kích cộng đoàn trong các lời khuyên Phúc Âm
và đoàn sủng.
44. Chiều kích cộng
đoàn trong các lời khuyên Phúc Âm
Lời tuyên khấn của các
tu sĩ diễn tả hồng ân dâng hiến bản thân cho Thiên Chúa
và cho Giáo Hội - tuy nhiên đó là hồng ân được sống trong
cộng đoàn của một gia đình tu trì. Người tu sĩ không chỉ
”được kêu gọi” đến một ơn gọi riêng cá nhân. Ơn gọi của
họ cũng là ”cùng được kêu gọi” - con-vocation -, họ được kêu
gọi với những người khác, với những người mà họ chia sẻ
đời sống hằng ngày.
Ở đây có sự tập trung
những lời thưa ”xin vâng” đối với Thiên Chúa, lời thưa đã
hợp nhất số đông tu sĩ vào sống trong một cộng đoàn duy
nhất. Cùng được thánh hiến với nhau - nghĩa là được hiệp nhất
trong cùng một lời thưa “xin vâng”, được hiệp nhất trong
Chúa Thánh Thần - người tu sĩ hằng ngày khám phá ra rằng
việc họ theo Chúa Ki-tô, ”vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh”, được
sống trong tình huynh đệ, cũng tương tự như các Tông
Đồ ngày xưa đã theo Đức Giê-su trong tác vụ của Người. Các Tông
Đồ đã hợp nhất với Đức Ki-tô, và vì vậy họ được
mời gọi để sống hợp nhất với nhau. Họ được hợp nhất trong
sứ mạng loan báo một cách ngôn sứ việc chống lại ngẫu
tượng quyền lực, chiếm đoạt và khoái lạc (58).
Như vậy, đức vâng phục
ràng buộc những ý muốn khác nhau lại và hợp nhất những ý muốn
đó trong một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, được trao cho
một sứ vụ đặc biệt để chu toàn trong Giáo Hội.
Vâng phục có nghĩa là
”xin vâng” đối với kế hoạch của Thiên Chúa, nhờ đó Người
đã ký thác công việc đặc biệt cho một nhóm người. Lời
thưa ”xin vâng” ấy gắn liền với sứ vụ, nhưng cũng gắn liền
với cộng đoàn, một cộng đoàn phải thực hiện việc phục vụ
ở đây, lúc này và với nhau. Lời thưa ”xin vâng” cũng đòi
hỏi một cái nhìn đức tin sáng suốt đối với các bề trên,
những người ”thực thi nhiệm vụ lãnh đạo và phục vụ” (59)
và là những người phải nhận ra sự hài hoà giữa công tác
tông đồ và sứ vụ. Chính trong việc họ hiệp thông với nhau
mà ý muốn của Thiên Chúa - ý muốn duy nhất có thể cứu
chúng ta - được hoàn tất.
Khó nghèo, sự chia sẻ
của cải, kể cả những của cải thiêng liêng, ngay từ đầu đã
là nền tảng cho sự hiệp thông huynh đệ. Sự khó nghèo của
cá nhân các phần tử, gắn liền với một lối sống giản dị và
khắc khổ, không những giải thoát người tu sĩ khỏi
những bận tâm liên hệ đến quyền sở hữu riêng tư, mà còn
làm phong phú cộng đoàn, giúp cộng đoàn phục vụ Thiên Chúa và
người nghèo cách hữu hiệu hơn.
Sự khó nghèo bao hàm
một chiều kích kinh tế : khả năng quyết định về tiền bạc
như là của riêng mình, hoặc cho chính mình hoặc cho các phần
tử trong gia đình mình, một lối sống quá khác biệt với
các phần tử khác trong cộng đoàn và với mức sống của xã
hội mình đang sống - tất cả những điều này đều làm
tổn thương và làm suy yếu đời sống huynh đệ.
“Khó nghèo trong tinh
thần”, khiêm tốn, đơn giản, nhìn nhận những hồng ân
của kẻ khác, đánh giá các thực tại Tin Mừng như là ”đời
sống ẩn giấu với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa”, kính trọng
hy sinh âm thầm, nhìn nhận những người hèn kém nhất, tận
tuỵ với những cố gắng cả khi không được biết đến hay
không được trả công. Đó là tất cả những khía cạnh kết hợp
của đời sống huynh đệ và phát sinh từ lời khấn khó nghèo.
Một cộng đoàn những
”người nghèo” sẽ dễ dàng bày tỏ sự liên đới với người
nghèo hơn, và cho thấy trọng tâm của việc Phúc Âm hoá,
bởi vì trình bày một cách cụ thể khả năng biến đổi của
các mối phúc.
Trong chiều kích cộng
đoàn, khiết tịnh được thánh hiến bao gồm cả sự trong sạch
tâm hồn, trái tim và thân thể, biểu lộ sự tự do lớn lao
để yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tất cả những gì thuộc về
Người, bằng một tình yêu không chia sẻ, và như vậy, có thể
dốc toàn lực để yêu mến và phục vụ tha nhân, làm cho tình
yêu của Đức Ki-tô hiện diện. Không ích kỷ cũng không độc
quyền, không chiếm hữu cũng không nô lệ đam mê, nhưng
phổ quát và vô vị lợi, tự do và giải thoát - điều cần
thiết cho sứ vụ - tình yêu này được vun trồng và lớn lên
qua đời sống huynh đệ. Như thế, những ai sống đời độc
thân thánh hiến ”nhắc mọi người nhớ sự kết hiệp lạ lùng
mà Thiên Chúa đã thực hiện, và sẽ tỏ lộ đầy đủ ở
đời sau, và trong sự kết hiệp ấy, Hội Thánh nhận Đức
Ki-tô là Đấng Lang Quân độc nhất của mình” (60).
Chiều kích cộng đoàn
của các lời khấn dòng cần phải được tiếp tục nuôi dưỡng
và đào sâu, vì đó là một tiến trình mang tính chất huấn
luyện liên tục.
45. Đoàn sủng
Đây là khía cạnh thứ
hai của việc huấn luyện liên tục mà chúng ta phải đặc
biệt lưu tâm để cổ võ sự phát triển đời sống huynh đệ.
“Sự thánh hiến tu trì
thiết lập mối hiệp thông đặc thù giữa người tu sĩ với
Thiên Chúa và, trong Người, giữa các phần tử của cùng
một hội dòng ... Tuy nhiên, nền tảng của sự hiệp nhất là
sự hiệp thông trong Đức Ki-tô được củng cố bởi đoàn sủng
duy nhất của đấng sáng lập” (61). Vì thế, việc quy chiếu
về vị sáng lập dòng, và về đoàn sủng mà vị ấy đã sống và
thông truyền, gìn giữ và phát triển qua suốt cuộc sống của
hội dòng (62), được coi là yếu tố thiết yếu cho sự hiệp
nhất của cộng đoàn.
Sống
trong cộng đoàn là cùng nhau sống thánh ý Thiên Chúa phù hợp
với đường hướng của đoàn sủng mà vị sáng lập đã nhận
được từ Thiên Chúa và truyền lại cho các đồ đệ và những
người tiếp bước các ngài.
Trong
những năm gần đây, khi nhấn mạnh tầm quan trọng của đoàn
sủng nguyên thuỷ nhờ suy tư thần học phong phú (63), cuộc canh
tân đã cổ võ sự hiệp nhất cộng đoàn, sự hiệp nhất được
coi như nơi tiếp nhận cùng một hồng ân của Chúa Thánh
Thần, một hồng ân phải được chia sẻ cho các anh chị em, và nhờ
đó có thể làm phong phú Giáo Hội ”cho trần gian được sống”. Vì
lý do đó, chương trình đào tạo sẽ đặc biệt hữu ích khi
bao gồm những khoá học đều đặn và suy tư trong cầu nguyện
về vị sáng lập, về đặc sủng và hiến pháp của hội dòng.
Sự
hiểu biết sâu xa về đoàn sủng đưa đến cái nhìn rõ rệt hơn
về căn tính riêng của hội dòng ; xoay quanh căn tính đó, việc xây
dựng sự hiệp nhất và hiệp thông sẽ dễ dàng hơn. Việc nắm
bắt sáng suốt căn tính đoàn sủng của hội dòng làm nảy
sinh những điều chỉnh có tính sáng tạo đối với những hoàn
cảnh mới, và điều này đưa tới những triển vọng tích
cực cho tương lai của hội dòng.
Thiếu
sáng suốt trong lãnh vực này có thể dễ gây ra sự bất
ổn cho các mục tiêu và tổn thương cho những hoàn cảnh
chung quanh đời tu, những luồng văn hoá và những nhu cầu
tông đồ khác ; thậm chí còn có thể làm cho công cuộc
thích nghi và canh tân không thực hiện được.
46.
Do đó cần phải phát triển căn tính đoàn sủng riêng của hội
dòng, nhất là để tránh một thứ ”đại loại” (genericism),
vốn là mối đe doạ thực sự cho sức sống của cộng đoàn tu trì.
Trong
những năm gần đây, có một vài nhân tố đã, và trong một
vài trường hợp, vẫn còn tiếp tục gây ra đau khổ cho cộng
đoàn tu trì, chẳng hạn :
một
đường hướng ”đại loại” (chung chung) - hay nói cách khác, một
đường hướng thiếu trung gian đặc loại của đoàn sủng mình - khi
chỉ để ý đến một số chỉ dẫn nào đó của Giáo Hội địa
phương hay một số gợi ý nào đó rút ra từ các linh đạo
khác nhau ;
một
thứ dấn thân trong các phong trào của Giáo Hội, đặt cá nhân
người tu sĩ vào hiện tượng mơ hồ là ”thành viên lưỡng
diện” ;
trong
mối liên hệ thiết yếu và đôi khi đầy hiệu quả với giáo
dân, đặc biệt với các cộng tác viên giáo dân, có một sự
thích nghi nào đó đối với não trạng giáo dân. Thay vì
trao ban chứng tá tu trì của mình như một hồng ân huynh đệ
để cổ võ cho chân tính Ki-tô giáo, họ lại chỉ bắt chước
giáo dân, theo lối nhìn và hoạt động của giáo dân, vì vậy
làm suy yếu phần đóng góp của sự tận hiến ;
một
sự thích nghi quá mức theo những đòi hỏi của gia đình, theo
những lý tưởng của quốc gia, chủng tộc hay thị tộc, hoặc
một vài nhóm xã hội, có nguy cơ bóp méo đoàn sủng cho hợp
với địa vị hay lợi lộc riêng.
Chủ
nghĩa đại loại, một chủ nghĩa giản lược đời tu vào
một mẫu số chung thấp nhất và không còn sắc thái, dẫn tới
việc tiêu diệt vẻ đẹp và hiệu quả của những đoàn sủng vừa nhiều
vừa khác biệt đã được Chúa Thánh Thần khơi dậy.
Quyền
bính để phục vụ tình huynh đệ
47.
Nói chung, người ta đồng ý rằng sự phát triển trong những
năm gần đây đã đóng góp vào sự trưởng thành đời
sống huynh đệ trong các cộng đoàn. Trong nhiều cộng đoàn,
bầu khí đời sống chung đã được cải thiện : có nhiều chỗ
cho mọi người tích cực tham gia ; đã có sự chuyển biến
từ một đời sống chung dựa quá nhiều vào việc giữ luật đến
một đời sống lưu tâm nhiều hơn đến những nhu cầu cá nhân,
nghĩa là chú trọng hơn tới con người. Nỗ lực xây dựng
những cộng đoàn bớt vụ hình thức, bớt độc đoán, thêm tình huynh
đệ và thêm sự tham gia, là điều nhìn chung được coi là
một trong những kết quả dễ nhận thấy hơn trong những năm
gần đây.
48.
Ở vài nơi, những phát triển tích cực này có nguy cơ bị
tổn thương do thiếu tin tưởng vào quyền bính.
Ước
vọng có sự hiệp thông sâu xa hơn giữa các phần tử và một
phản ứng tất nhiên chống lại những cơ cấu được coi là
quá cứng nhắc và độc đoán đã góp phần làm thiếu hiểu biết
phạm vi đầy đủ của vai trò quyền bính ; thực vậy, một số
người coi quyền bính là hoàn toàn không cần thiết cho đời
sống cộng đoàn, một số khác lại giản lược vào vai trò
thuần tuý phối hợp những sáng kiến của các phần tử. Kết quả,
một số cộng đoàn đi đến chỗ sống không có người
phụ trách, trong khi ở các cộng đoàn khác, mọi quyết định
đều có tính cách tập thể. Tất cả những điều đó đều đưa
đến nguy cơ - không phải chỉ là giả thuyết - đổ vỡ đời
sống cộng đoàn hoàn toàn, chủ ý nhắm ưu tiên cho những
đường lối cá nhân, và đồng thời làm lu mờ chức năng của
quyền bính, một chức năng vừa cần thiết cho sự thăng
tiến đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, vừa cần thiết cho
hành trình thiêng liêng của người tận hiến.
Tuy
nhiên, kết quả của những thử nghiệm này dần dần đưa tới
việc tái khám phá nhu cầu và vai trò quyền bính cá nhân,
nối tiếp toàn bộ truyền thống đời tu.
Nếu
bầu khí dân chủ lan rộng đã khuyến khích sự phát triển tinh
thần đồng trách nhiệm và sự tham gia của mọi người trong
tiến trình quyết định, ngay cả trong đời tu, thì chúng ta
đừng quên rằng tình huynh đệ không phải chỉ là kết quả
của cố gắng nhân loại, nhưng cũng là, và trên hết, là một
hồng ân của Thiên Chúa. Đó là một hồng ân do tuân phục Lời
Thiên Chúa, và trong đời tu, cũng là tuân phục quyền bính,
nó nhắc nhở chúng ta về Lời đó và hướng về Lời trong
những hoàn cảnh đặc biệt, phù hợp với tinh thần của hội
dòng.
“Thưa
anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì
anh em, để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo
anh em. Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính
những người ấy, vì công việc họ làm” (1 Tx 5,12-13). Cộng
đoàn Ki-tô hữu không phải là một tập thể vô danh,
nhưng ngay từ lúc đầu, họ đã có các vị lãnh đạo là những
người mà thánh Tông Đồ muốn mọi người phải lưu tâm, kính
trọng và yêu mến.
Trong
các cộng đoàn tu trì, các vị hữu trách, những người
được quan tâm và kính trọng cũng do lời khấn vâng phục,
được đặt lên để phục vụ tình huynh đệ, để phát triển, để
hoàn thành những mục tiêu thiêng liêng và tông đồ.
49.
Cuộc canh tân mới đây đã giúp tái phác hoạ quyền bính
với ý định liên kết quyền bính một lần nữa mật thiết hơn
với các nguồn gốc Tin Mừng và, do đó, liên kết với việc phục vụ
sự tiến bộ thiêng liêng của mỗi người và phát triển tình
huynh đệ trong cộng đoàn.
Mỗi
cộng đoàn có một sứ vụ riêng phải chu toàn. Vì thế, các
vị hữu trách phục vụ cộng đoàn là những người phải chu
toàn một sứ vụ riêng biệt, được hội dòng và đoàn sủng của
hội dòng tiếp nhận và xác định. Ở đâu có sự đa dạng về
sứ vụ, ở đó cũng phải có những loại cộng đoàn khác nhau,
và vì vậy, có những cách thực thi quyền bính khác nhau.
Do đó, đời tu có những quan điểm và đường lối thi hành quyền
bính khác nhau, được quy định trong luật riêng.
Theo
tinh thần Tin Mừng, quyền bính luôn luôn là để phục vụ.
50.
Cuộc canh tân trong những năm gần đây đã nêu bật một vài
khía cạnh của quyền bính :
a.
Quyền bính về tâm linh
Nếu
những người tận hiến đã dâng hiến bản thân để hoàn
toàn phụng sự Thiên Chúa, thì quyền bính cổ võ và nâng đỡ
sự tận hiến của họ. Theo một nghĩa nào đó, quyền bính có thể
được coi là ”tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa”. Nhiệm vụ
chính của quyền bính là xây dựng, trong sự hiệp nhất anh
chị em, một ”cộng đoàn huynh đệ trong đó mọi người tìm kiếm
và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự” (64). Do đó, trước
hết, bề trên phải là một người tâm linh, xác tín tính ưu
việt của khía cạnh tâm linh, vừa liên quan tới đời sống
cá nhân lẫn sự phát triển đời sống huynh đệ ; nói cách
khác, vị ấy phải biết rằng tình yêu Thiên Chúa càng
tăng lên trong tâm hồn mỗi cá nhân, thì càng có sự hiệp
nhất giữa các tâm hồn hơn.
Như
thế, nhiệm vụ chính của bề trên là vị linh hoạt đời sống
tâm linh, cộng đoàn và tông đồ của cộng đoàn mình.
b.
Quyền bính kiến tạo sự hiệp nhất
Quyền
bính kiến tạo sự hiệp nhất là một quyền bính quan tâm lo sáng
tạo bầu khí thích hợp cho sự chia sẻ và tinh thần đồng
trách nhiệm : khuyến khích mọi người đóng góp vào công
việc chung, cổ võ các phần tử đảm nhận và tôn trọng trách
nhiệm ; qua sự lưu tâm đến con người, cổ võ đức tuân phục
tự nguyện (65), sẵn lòng lắng nghe các phần tử, xúc tiến
sự cộng tác hài hoà vì lợi ích của hội dòng và của Giáo
Hội (66) ; tham gia đối thoại và tạo những cơ hội gặp
gỡ thuận tiện ; đem lại sự can đảm và hy vọng trong những
lúc khó khăn ; dự đoán và vạch ra những chân trời mới cho
sứ vụ. Hơn nữa, quyền bính còn phải tìm cách duy trì sự
quân bình giữa những khía cạnh khác nhau của đời sống
cộng đoàn - giữa cầu nguyện và làm việc, tác vụ tông đồ
và việc huấn luyện, làm việc và nghỉ ngơi.
Quyền
bính của một bề trên phải tác động thế nào để cho
nhà dòng không chỉ là một nơi trú ngụ, tập hợp một số
người sống riêng rẽ, nhưng là một ”cộng đoàn huynh đệ trong Đức
Ki-tô” (67).
c.
Quyền bính có khả năng quyết định cuối cùng và bảo đảm
việc chấp hành
Sự
phân định của cộng đoàn là một tiến trình khá hữu ích mặc
dù không dễ dàng hay đương nhiên, vì nó liên quan đến khả
năng của con người, sự khôn ngoan thiêng liêng, và sự
khách quan. Nơi nào được thực hiện với đức tin và sự
nghiêm túc, thì nơi đó sự phân định của cộng đoàn có thể
cung cấp cho các bề trên những điều kiện thuận lợi để đi tới
những quyết định cần thiết cho lợi ích tối hảo của đời sống
huynh đệ và sứ vụ.
Khi
một quyết định đã được đưa ra thực hiện theo đúng thủ tục
do luật riêng ấn định, các bề trên cần nhiều kiên nhẫn và can
đảm để bảo đảm rằng những gì đã được quyết định
không chỉ là những chữ viết ghi trên giấy tờ.
51.
Luật riêng của mỗi hội dòng cũng phải xác định càng rõ
càng tốt thẩm quyền liên hệ của cộng đoàn, của những hội
đồng khác nhau, của những vị điều phối các ban ngành và
của bề trên. Một cái nhìn thiếu sáng suốt trong lãnh
vực này sẽ là đầu mối gây ra lộn xộn và xung đột.
“Những
dự phóng cộng đoàn” có thể giúp gia tăng việc tham gia vào
đời sống cộng đoàn và vào sứ vụ trong những bối cảnh khác nhau,
cũng phải lưu ý xác định rõ vai trò và thẩm quyền của các
vị hữu trách, phù hợp với hiến pháp.
52.
Các cộng đoàn huynh đệ và hiệp nhất ngày càng được
mời gọi trở thành yếu tố quan trọng và đầy sức thuyết
phục đối với nền văn hoá phản Tin Mừng, các cộng đoàn này
là muối của trần gian và ánh sáng cho đời.
Do
đó, chẳng hạn, nếu trong xã hội Tây phương, nơi chủ nghĩa cá
nhân lan tràn, thì cộng đoàn tu trì được mời gọi trở
thành dấu chỉ ngôn sứ cho khả năng kiến tạo tình huynh đệ
và liên đới trong Đức Ki-tô ; trong những nền văn hoá
mà chủ nghĩa độc tài hay chủ nghĩa cộng đồng lan tràn thì
cộng đoàn được mời gọi để trở thành dấu chỉ tôn trọng và
cổ võ quyền con người, và cũng là lời mời gọi thi hành
quyền bính phù hợp với ý Thiên Chúa.
Trong
khi các cộng đoàn tu trì phải tham dự vào nền văn hoá nơi họ
sống, họ cũng được mời gọi để thanh tẩy và nâng cao nền
văn hoá đó, nhờ muối và ánh sáng của Tin Mừng, qua các
cộng đoàn, đem lại một tổng hợp cụ thể về cái không
chỉ là Phúc Âm hoá nền văn hoá (evangelization of
culture), mà còn là Phúc Âm hoá việc hội nhập văn hoá (evangelizing
inculturation) và việc Phúc Âm hoá được hội nhập văn hoá
(inculturated evangelization).
53.
Sau cùng, chúng ta không bao giờ được quên một vấn đề
thường gây đau khổ, phức tạp và tế nhị, đó là đức tin
đóng vai trò quyết định giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm cứu
độ của đức tuân phục (68). Cũng như vì sự bất tuân của một
người đưa đến sự tan rã của gia đình nhân loại, và sự
tuân phục của Con Người Mới đã khởi đầu công cuộc tái tạo
(x. Rm 5,19), thì thái độ tuân phục sẽ luôn luôn là một
sức mạnh thiết yếu cho mọi cuộc sống gia đình.
Đời
sống tu trì luôn sống nhờ xác tín này của đức tin, và
được mời gọi để cũng sống theo xác tín đó hôm nay, với
lòng can đảm để không chạy theo việc tìm kiếm những tương quan
huynh đệ một cách vô ích, và để trở nên một thực tại Phúc
Âm thích hợp trong Giáo Hội và trong xã hội.
54.
Tình huynh đệ như là dấu chỉ
Mối
tương quan giữa đời sống huynh đệ và hoạt động tông
đồ, đặc biệt trong những hội dòng dấn thân vào công tác
tông đồ, không luôn luôn rõ rệt, và rất thường dẫn đến sự
căng thẳng cho cá nhân lẫn cộng đoàn. Đối với một số
người, việc ”xây dựng cộng đoàn” bị coi là trở ngại cho
sứ vụ, gần như hoang phí thời giờ trong những vấn đề
thứ yếu. Mọi người phải nhớ rằng sự hiệp thông huynh đệ
như thế đã là một tác vụ tông đồ rồi. Nói cách khác, nó
đóng góp trực tiếp cho công cuộc Phúc Âm hoá. Dấu chỉ
tuyệt hảo mà Chúa đã để lại cho chúng ta là dấu chỉ của
tình huynh đệ sống động : ”Do điều này mà mọi người
sẽ biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”
(x. Ga 13,35).
Cùng
với việc sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo
vật (Mt 28,19-20), Chúa đã sai các ông sống với nhau ”để
thế gian tin” rằng Đức Giê-su là Đấng được Chúa Cha sai
đến và để chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Người (Ga 17,21).
Dấu chỉ của tình huynh đệ là điều rất hệ trọng, vì là dấu
chỉ cho thấy nguồn gốc siêu nhiên của sứ điệp Ki-tô giáo,
và có năng lực mở lòng đón nhận đức tin. Vì thế, ”hiệu
quả của đời tu tuỳ thuộc vào phẩm chất của đời sống
huynh đệ cộng đoàn” (69).
55.
Một cộng đoàn tu trì, tuỳ mức độ cổ võ đời sống huynh
đệ trong các phần tử của mình, là sự thể hiện một cách
liên tục và rõ ràng ”dấu chỉ” này, dấu chỉ mà Giáo Hội
cần nhất trong nhiệm vụ tái Phúc Âm hoá của mình.
Cũng
vì lý do đó, Giáo Hội tin tưởng vào đời sống huynh đệ của
các cộng đoàn tu trì : tình huynh đệ càng thắm thiết thì
sự tin tưởng vào sứ điệp mà Giáo Hội công bố càng gia
tăng, và trung tâm của mầu nhiệm Giáo Hội, bí tích hiệp
nhất nhân loại với Thiên Chúa và hiệp nhất các phần tử với
nhau, càng hiện rõ hơn (70). Đời sống huynh đệ không phải
là ”bổ túc” cho sứ vụ của cộng đoàn tu trì, nhưng là một
yếu tố nòng cốt. Đời sống huynh đệ cũng quan trọng như
đời sống tông đồ.
Vì
thế, không thể viện lẽ những nhu cầu của việc phục vụ tông
đồ để chấp nhận hay biện minh cho sự khiếm khuyết đời
sống cộng đoàn. Hoạt động của tu sĩ phải là hoạt động của
người sống trong cộng đoàn, và chu toàn hoạt động đó với
tinh thần của cộng đoàn bằng lời nói, hành động và
gương sáng.
Trong
những trường hợp đặc biệt, chúng ta sẽ xem xét sau, có
thể cần có những điều chỉnh, nhưng không được cho phép
một tu sĩ sống ngoài sự hiệp thông và tinh thần của cộng
đoàn mình.
56.
Khi ý thức trách nhiệm của mình đối với tình huynh đệ
rộng lớn trong Giáo Hội, các cộng đoàn tu sĩ cũng trở nên
dấu chỉ về khả năng sống tình huynh đệ Ki-tô giáo và về
cái giá phải trả để xây dựng bất cứ hình thức đời sống
huynh đệ nào.
Hơn
nữa, trong bối cảnh những xã hội khác nhau trên hành tinh chúng ta -
bị xâu xé bởi những thế lực phân rẽ do đam mê và xung đột
quyền lợi, khao khát hiệp nhất nhưng không biết đường nào
chắc chắn để theo - sự hiện diện của các cộng đoàn có những con
người khác nhau về tuổi tác, ngôn ngữ và văn hoá, gặp gỡ
nhau như anh chị em, mà vẫn hiệp nhất mặc dù có
những xung khắc không thể tránh được, cũng như những khó
khăn cố hữu trong đời sống chung, tự nó là một dấu chỉ
làm chứng cho một thực tại cao hơn và cho thấy những
khát vọng cao hơn :
“Nhờ
đời sống loan báo niềm vui và các giá trị siêu nhiên
cũng như tự nhiên của tình huynh đệ Ki-tô giáo, các cộng
đoàn tu trì công bố cho xã hội chúng ta thấy sức mạnh
biến đổi của Tin Mừng” (71).
“Trên
hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái, đó là mối dây tuyệt
hảo liên kết anh em” (Cl 3,12), đó là tình bác ái Đức Giê-su
đã dạy, đã sống và đã truyền đạt cho chúng ta nhờ Thánh Thần.
Tình yêu hiệp nhất này cũng là tình yêu khiến chúng ta
trải rộng tới người khác kinh nghiệm hiệp thông với
Thiên Chúa và với nhau. Nói cách khác, tình yêu này tạo
nên những vị tông đồ bằng cách thúc đẩy các cộng đoàn
trên nẻo đường sứ vụ, dù đó là việc chiêm niệm, loan
truyền Lời Chúa hay làm việc từ thiện. Thiên Chúa muốn làm
cho trần gian tràn ngập tình yêu của Người ; bởi thế, các
cộng đoàn huynh đệ trở nên những người thừa sai của tình
yêu này, và trở thành những dấu chỉ ngôn sứ cho sức mạnh
hiệp nhất của tình yêu ấy.
57.
Phẩm chất đời sống huynh đệ có ảnh hưởng quan trọng đối
với sự bền chí của cá nhân tu sĩ. Phẩm chất nghèo nàn của
đời sống huynh đệ vẫn thường được coi là lý do để bỏ đời tu
thế nào, thì sống sung mãn tình huynh đệ thường và vẫn là
một sự nâng đỡ quý giá cho sự kiên trì của nhiều người
như thế.
Trong
một cộng đoàn huynh đệ chân chính, mỗi phần tử đều phải
có tinh thần đồng trách nhiệm đối với sự trung thành của
những người khác. Mỗi người đóng góp cho bầu khí thanh
bình của đời sống chia sẻ, của sự hiểu biết và sự trợ
giúp hỗ tương, mỗi người lưu tâm đến những lúc chán
nản, đau khổ, cô đơn hay những lúc thiếu sự động viên nơi
những người khác ; mỗi người sẵn sàng nâng đỡ những ai bị
buồn sầu vì những khó khăn và thử thách.
Như
vậy, các cộng đoàn tu trì, khi nâng đỡ sự bền chí của
các phần tử, cũng có giá trị là dấu chỉ của lòng thành
tín vĩnh tồn nơi Thiên Chúa, và như vậy, trở nên cột trụ
chống đỡ đức tin và sự trung tín của các Ki-tô hữu đang
bị nhận chìm giữa bao biến cố cuộc đời, nơi các nẻo đường
thành tín xem ra càng ngày càng bị lãng quên.
CHƯƠNG
III : CỘNG ĐOÀN TU TRÌ, ĐỊA ĐIỂM VÀ CHỦ THỂ THI HÀNH SỨ VỤ
58.
Như Thánh Thần xức dầu cho Giáo Hội trong phòng Tiệc Ly để sai
Giáo Hội đi rao giảng Tin Mừng khắp thế giới, thì mỗi cộng đoàn
tu trì, như là một cộng đoàn thần khí đích thực của Đấng
Phục Sinh, cũng là cộng đoàn tông đồ theo đúng bản chất
của mình.
Thực
vậy, ”hiệp thông phát sinh hiệp thông : tự bản chất sự
hiệp thông được liên kết với sứ vụ nhân danh sự hiệp
thông ... Hiệp thông và sứ vụ liên kết chặt chẽ với nhau,
cả hai thấm nhập và bao hàm lẫn nhau, đến nỗi sự
hiệp thông tượng trưng cho cả nguồn mạch và kết quả của
sứ vụ : hiệp thông làm phát sinh sứ vụ và sứ vụ được hoàn
thành nhờ hiệp thông” (72).
Không
có một cộng đoàn tu trì nào, ngay cả những cộng đoàn chuyên
chiêm niệm, được co cụm lại chính mình.
Đúng
hơn, cộng đoàn là loan báo, phục vụ (diakonia), và là
chứng tá ngôn sứ. Đấng Phục Sinh, đang sống trong cộng
đoàn, đang thông ban Thần Khí của Người cho cộng đoàn,
đã làm cho cộng đoàn trở thành chứng nhân của sự phục
sinh.
Cộng đoàn tu trì và sứ
vụ
Trước khi suy tư về
một vài hoàn cảnh đặc biệt mà, để trung thành với sứ vụ
chuyên biệt của mình, một cộng đoàn tu trì ngày nay
phải đương đầu trong những hoàn cảnh khác nhau trên khắp
thế giới, thật là hữu ích cho chúng ta khi tìm hiểu ở đây
mối tương quan đặc biệt giữa những loại cộng đoàn tu trì
khác nhau và sứ vụ họ được kêu gọi để thi hành.
59. a. Công Đồng
Va-ti-ca-nô II đã tuyên bố : ”Các tu sĩ phải đem hết tâm
lực làm cho Giáo Hội, qua con người của họ, thực sự biểu
dương Đức Ki-tô ngày một hoàn hảo hơn cho các tín hữu
cũng như cho lương dân, biểu dương Chúa Ki-tô đang
cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên Chúa
cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tật
nguyền, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong
phú, hoặc đang chúc phúc cho các trẻ em, ban ơn lành cho
mọi người và luôn luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng
đã sai Người đến” (73).
Do tham dự vào những
khía cạnh khác nhau của sứ vụ Đức Ki-tô, Thánh Thần làm
phát sinh những dòng tu khác nhau, xác định đặc tính của
họ bằng những sứ vụ khác nhau, và do đó, bằng những loại
cộng đoàn khác nhau.
b. Kiểu mẫu cộng đoàn
chiệm niệm (biểu dương Đức Ki-tô trên núi) thì tập trung
vào sự hiệp thông hai chiều với Thiên Chúa và với các
phần tử trong cộng đoàn. Kiểu mẫu này có ảnh hưởng tông đồ hữu
hiệu nhất, mặc dù vẫn còn khoảng cách giấu ẩn lớn trong
mầu nhiệm. Cộng đoàn tu trì ”tông đồ” (biểu dương Đức
Ki-tô ở giữa dân chúng) được thánh hiến để phục vụ tha
nhân một cách sống động, một công việc phục vụ chuyên biệt phát
xuất từ đoàn sủng riêng biệt.
Trong số ”những cộng
đoàn tông đồ”, một số cộng đoàn nhấn mạnh nhiều vào đời
sống chung đến nỗi sứ vụ tông đồ của họ tuỳ thuộc vào khả
năng hình thành cộng đoàn. Những cộng đoàn khác thì
quyết định hướng về sứ vụ, và đối với họ, kiểu mẫu cộng
đoàn tuỳ thuộc vào loại hình sứ vụ. Các hội dòng rõ ràng
được tổ chức theo những hình thức đặc biệt của công việc
tông đồ thì nhấn mạnh đến sự ưu tiên của toàn thể gia
đình tu trì, xét như là một thân thể mang tính tông đồ,
và một cộng đoàn rộng lớn được Thánh Thần trao ban sứ vụ
phải thi hành trong Giáo Hội. Sự hiệp thông làm sống động
và quy tụ đại gia đình lại được sống một cách cụ thể
trong những cộng đoàn nhỏ ở địa phương, là những cộng
đoàn được giao phó thi hành sứ vụ tuỳ theo những nhu cầu
khác nhau.
Như vậy, đã có những
loại cộng đoàn tu trì khác nhau lưu truyền qua nhiều thế
kỷ, chẳng hạn như các đan viện, tu viện, và các cộng đoàn hoạt
động hay ”phục vụ” (diaconal).
Do đó ”đời sống chung
trong cộng đoàn” không có cùng một ý nghĩa đối với tất cả
mọi tu sĩ. Các đan sĩ, các tu sĩ và các phần tử sống đời
hoạt động duy trì những khác biệt hợp pháp trong cách
hiểu và sống cộng đoàn tu trì.
Sự khác biệt này được
trình bày trong hiến pháp của các hội dòng, hiến pháp
phác hoạ đặc tính của hội dòng, và hậu nhiên phác hoạ đặc
tính của cộng đoàn.
c. Nói chung, đặc biệt
đối với những cộng đoàn tu trì chuyên hoạt động tông đồ,
người ta thấy, theo kinh nghiệm hằng ngày, có đôi
chút khó khăn khi phải hoà hợp những đòi hỏi của đời sống
cộng đoàn với công việc tông đồ. Nếu có nguy cơ đối
nghịch giữa hai khía cạnh này thì cũng sẽ có khó khăn khi
phải hoà hợp chúng lại với nhau. Đây cũng là một chiều hướng
ích lợi cho đời tu là đời sống nhằm vun trồng đồng thời
cả lối sống của người môn đệ>, phải sống với
Đức Giê-su và với đám đông đi theo Người, và lối sống của
người tông đồ, phải tham gia vào sứ vụ của Chúa.
d. Trong những năm gần
đây, nhu cầu tông đồ rất đa dạng thường đưa đến việc cùng
tồn tại trong một hội dòng những cộng đoàn khác biệt nhau
đáng kể, những cộng đoàn lớn và có cơ cấu chặt chẽ hơn
hiện hữu bên cạnh cộng đoàn nhỏ hơn, linh động hơn,
nhưng vẫn không đánh mất đi tính chất cộng đoàn đích thực
của đời tu.
Tất cả những điều này
xem ra ảnh hưởng lớn đối với đời sống và bản chất của hội
dòng, mà ngày nay không còn chặt chẽ như ngày xưa, nhưng
đa dạng hơn và có nhiều cách khác nhau để sống cộng đoàn
tu trì.
đ. Trong một vài hội
dòng, khuynh hướng nhấn mạnh đến sứ vụ hơn là cộng đoàn,
và khuynh hướng cổ võ sự khác biệt hơn là sự hiệp nhất,
đã tác động sâu xa đến đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, đến
nỗi đôi khi trở thành một điều nhiệm ý hơn là một thành
phần toàn vẹn của đời tu.
Hệ quả của điều này
chắc chắn không có tính cách tích cực ; những hệ quả ấy
khiến chúng ta đặt ra những câu hỏi nghiêm chỉnh là
không biết có thích hợp để tiếp tục đi theo chiều hướng
này không, và gợi ra yêu cầu phải xây dựng một đường lối
tái khám phá sự liên kết mật thiết giữa cộng đoàn và sứ
vụ, để vượt qua một cách sáng tạo những khuynh hướng đơn
phương bao giờ cũng làm cạn kiệt thực tại phong phú của
đời tu.
Trong Giáo Hội
địa phương
60. Sự hiện diện có
tính truyền giáo của một cộng đoàn tu trì được phát triển
trong khung cảnh của một Giáo Hội địa phương. Các phần
tử của cộng đoàn đem lại cho Giáo Hội đó sự phong phú của
đời thánh hiến, của tình huynh đệ và đoàn sủng của mình.
Nguyên bằng sự hiện
diện của mình, một cộng đoàn tu trì không chỉ mang trong mình
sự phong phú của đời sống Ki-tô hữu mà thôi, nhưng vì là
một đơn vị, cộng đoàn làm thành lời loan báo sứ điệp
Ki-tô giáo cách đặc biệt hiệu nghiệm. Có thể nói đó là
một lời rao giảng sống động và liên tục. Điều kiện khách
quan này rõ rệt buộc chính các tu sĩ phải chịu trách nhiệm,
trong khi kêu gọi họ trung thành với sứ vụ ưu tiên này, trong khi
sửa sai và loại trừ những gì có thể làm suy yếu sức lôi
cuốn nơi gương sáng của họ, làm cho sự hiện diện của họ
nơi Giáo Hội địa phương dễ nhận ra và quý giá hơn bất
cứ một thẩm định nào khác.
Vì đức ái là đoàn sủng
lớn nhất (x. 1 Cr 13,13), nên một cộng đoàn tu trì làm
phong phú cho Giáo Hội mà mình là thành phần sống động,
trước hết bằng lòng mến của mình. Cộng đoàn tu trì yêu
mến Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương nơi cộng
đoàn tháp nhập, vì chính trong Giáo Hội và như Giáo Hội mà
cộng đoàn gắn bó với sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi
chí thánh, nguồn mạch mọi sự lành. Trong cách này, cộng
đoàn đặc biệt biểu lộ chính bản chất của Giáo Hội.
Một cộng đoàn tu trì
yêu mến Giáo Hội địa phương, sẽ làm phong phú cho Giáo
Hội đó bằng đoàn sủng của mình và mở ra cho Giáo Hội
đó một chiều kích phổ quát hơn. Văn kiện Những liên hệ hỗ
tương (Mutuae Relationes) đã đề cập đến mối tương quan
tinh tế giữa những nhu cầu mục vụ của Giáo Hội địa phương
với tính chất riêng biệt trong đoàn sủng của cộng đoàn
tu trì. Thêm vào những chiều kích thần học và mục vụ, văn
kiện này đã góp phần quan trọng cho sự cộng tác thân
thiện và mật thiết hơn. Thời gian đã đưa đến một cách
nhìn khác về văn kiện, nhằm đi đến bước đột phá mới cho
tinh thần hiệp thông đích thực giữa cộng đoàn tu trì và Giáo
Hội địa phương.
Những khó khăn đang
gia tăng và việc thiếu nhân sự trong hoạt động sứ vụ cám
dỗ cả cộng đoàn tu trì và Giáo Hội địa phương rơi
vào tình trạng cô lập nào đó, dĩ nhiên điều này không cải
thiện sự hiểu biết và hợp tác hỗ tương chút nào.
Cộng đoàn tu trì có
nguy cơ là một đàng hiện diện ở địa phương mà không gắn
bó với đời sống hoặc chương trình mục vụ của Giáo Hội đó,
đàng khác chỉ giản lược vào các phận sự mục vụ mà thôi. Ngoài
ra, nếu đời sống tu trì càng ngày càng có khuynh hướng
nhấn mạnh đến căn tính đoàn sủng riêng, thì Giáo Hội địa phương
thường ép buộc và đòi hỏi năng lực của các tu sĩ
trong những hoạt động mục vụ của giáo phận hay giáo xứ.
Những chỉ dẫn mà <%3>văn kiện ”Những liên hệ hỗ tương”
đưa ra, giúp cộng đoàn tu trì khỏi tách rời hay đứng độc
lập trong tương quan với Giáo Hội địa phương, và
khỏi đồng hoá trong thực tiễn với Giáo Hội địa phương.
Một cộng đoàn tu trì
không thể hoạt động độc lập với Giáo Hội địa phương, hay
thay thế Giáo Hội địa phương hoặc là ít nhiều chống lại
những chỉ thị và chương trình mục vụ của Giáo Hội địa
phương. Tương tự như vậy, Giáo Hội địa phương cũng không thể
theo những sở thích và những nhu cầu riêng mà áp đặt
quyết định của mình đối với cộng đoàn tu trì hay bất
cứ phần tử nào của cộng đoàn đó.
Điều quan trọng cần
nhắc lại là thiếu hiểu biết đúng đắn về đoàn sủng của
cộng đoàn tu trì sẽ không thể phục vụ cho thiện ích của
Giáo Hội địa phương cũng như cho ích lợi của chính cộng đoàn tu
trì. Chỉ khi nào một cộng đoàn tu trì xác định rõ rệt căn
tính đoàn sủng của mình, khi ấy cộng đoàn mới có thể tự
hội nhập vào ”chương trình mục vụ tổng quát” mà không
đánh mất đặc tính riêng của mình. Thực vậy, chỉ với
đường hướng đó, cộng đoàn mới có thể làm cho những chương
trình mục vụ thêm phong phú với ân điển của mình.
Chúng ta không nên
quên rằng, mọi đoàn sủng phát sinh trong Giáo Hội và cho
thế giới, và sự liên kết với nguồn mạch và mục đích của
đoàn sủng đó, cần phải được đổi mới thường xuyên ; mỗi
đoàn sủng sống động tuỳ theo mức độ người ta trung thành
với đoàn sủng ấy.
Giáo Hội và thế giới
là khung cảnh để giải thích, đòi hỏi, và thúc đẩy đoàn
sủng tiếp tục phát triển tương xứng và sống động. Đoàn
sủng và Giáo Hội địa phương không được xung khắc với
nhau, nhưng đúng hơn, phải nâng đỡ và hoàn thiện lẫn
nhau, đặc biệt vì ngày nay đang phát sinh nhiều vấn
đề liên quan đến việc sống đoàn sủng và hội nhập đoàn
sủng vào những hoàn cảnh thay đổi.
Nguồn gốc của nhiều
hiểu lầm có lẽ là sự hiểu biết lẫn nhau một cách phiến
diện hoặc là về phía Giáo Hội địa phương, hoặc là về phía
đời sống tu trì, và về phía trách nhiệm của giám mục đối với đời
tu.
Chúng tôi tha thiết
xin tất cả các chủng viện giáo phận đưa vào chương trình
học thần học cả những môn đặc biệt về thần học đời sống
thánh hiến, nghiên cứu về khía cạnh tín lý, luật pháp, và mục
vụ của đời sống đó nữa ; về phía tu sĩ, họ cũng phải
được đào tạo thích đáng về thần học Giáo Hội phương (74).
Tuy nhiên, trên hết,
một cộng đoàn tu trì thực sự sống huynh đệ cảm thấy có
trách nhiệm làm lan toả bầu khí hiệp thông, bầu khí làm cho
toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu trở thành ”gia đình con cái
của Thiên Chúa”.
61. Giáo xứ
Trong các giáo xứ, đôi
khi có thể có khó khăn trong việc hoà hợp đời sống giáo
xứ và đời sống cộng đoàn. Trong một vài vùng, những khó
khăn sống cộng đoàn đang khi hoạt động mục vụ tại giáo xứ đã
gây ra những căng thẳng đáng kể đối với các linh mục - tu
sĩ. Thỉnh thoảng, những ràng buộc nặng nề của công việc
mục vụ trong giáo xứ đã làm phương hại đến đoàn sủng của
hội dòng và đời sống cộng đoàn đến nỗi các vị quản xứ,
hàng giáo sĩ triều và ngay cả chính các tu sĩ cũng không
nhận rõ được bản chất riêng biệt của đời tu.
Những nhu cầu mục vụ
khẩn thiết không bao giờ được làm cho chúng ta quên rằng
sự phục vụ tốt nhất mà một cộng đoàn tu trì có thể đem
lại cho Giáo Hội là trung thành với đoàn sủng của mình. Điều này cũng
được phản ánh trong việc lãnh nhận trách nhiệm điều
hành các giáo xứ. Phải dành ưu tiên cho những giáo xứ
giúp cộng đoàn sống như là một cộng đoàn, và ở đó các tu
sĩ có thể biểu lộ đoàn sủng của mình.
Các cộng đoàn nữ tu
cũng gặp phải những khó khăn tương tự, khi thường xuyên
được yêu cầu dấn thân trực tiếp hơn cho công việc mục vụ
của giáo xứ.
Ở đây cũng cần nhắc
lại rằng, cộng đoàn càng hiện diện theo đoàn sủng của
mình thì sự hiện diện của cộng đoàn càng đem lại
nhiều hoa trái (75). Tất cả những điều này có thể là lợi
điểm lớn lao cho cả cộng đoàn tu trì lẫn công việc mục vụ
là công việc mà các nữ tu thường được đón nhận nồng hậu
và được đánh giá cao.
62. Các phong trào
Giáo Hội
Các phong trào Giáo
Hội, hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này, với tinh thần
sống động và sinh lực tông đồ, đã thu hút sự chú tâm của
một số tu sĩ dấn thân trong các phong trào đó, đôi khi rút ra
được kết quả là sự canh tân tinh thần, sự cống hiến cho
việc tông đồ, và tái thức tỉnh ơn gọi của họ. Tuy nhiên,
một đôi khi sự dấn thân như thế cũng gây ra những phân
rẽ trong cộng đoàn tu trì.
Do đó cần để ý tới
những nhận xét sau đây :
a. Một vài phong trào
chỉ là những phong trào canh tân, những phong trào
khác lại có những dự phóng tông đồ có thể không tương hợp
với dự phóng của cộng đoàn.
Cũng thế, về phía
những người tận hiến, có những mức độ dấn thân khác nhau
: một vài người tham dự với tư cách là khán giả ; những
người khác thỉnh thoảng tham dự ; còn những người khác nữa là thành
viên thường trực trong khi vẫn giữ sự hoà hợp hoàn toàn
với cộng đoàn và linh đạo của mình. Tuy nhiên, việc
các thành viên chủ chốt đang hoạt động trong đoàn thể và
việc những người sống xa cách hội dòng của mình về phương
diện tâm lý, lại trở thành vấn đề. Họ sống trong tình
trạng bị phân tâm : cư ngụ trong cộng đoàn, nhưng sống
theo những chương trình mục vụ và theo những nguyên tắc
của phong trào.
Do đó cần phải cẩn
thận phân biệt phong trào này với phong trào khác, và phân biệt
những hình thức dấn thân khác nhau về phía cá nhân người tu sĩ.
b. Các phong trào này
có thể là một thách đố hữu ích đối với cộng đoàn tu sĩ,
với năng động lực thiêng liêng của cộng đoàn, phẩm chất
đời sống cầu nguyện của cộng đoàn, sự tương hợp trong các
sáng kiến tông đồ của cộng đoàn, sự trung tín với Giáo
Hội, cường độ của đời sống huynh đệ. Một cộng đoàn tu
trì nên cởi mở để gặp gỡ các phong trào này, bằng cách tỏ
ra thái độ hiểu biết, đối thoại và trao đổi ân điển với
nhau.
Một truyền thống
thiêng liêng lớn lao, truyền thống khổ hạnh và thần
bí của đời sống tu trì và của các hội dòng cũng có thể có
ích cho những phong trào trẻ trung này.
c. Khó khăn chính đối
với các phong trào này là căn tính của cá nhân những
người tận hiến : nếu căn tính này vững chắc thì mối tương
quan có thể đem lại thành công cho cả đôi bên.
Đối với những tu sĩ có
vẻ như sống trong và cho phong trào nhiều hơn là trong và
cho cộng đoàn tu trì của mình, thì nên nhớ lại khẳng
định trong ”Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các
hội dòng” : ”Một hội dòng có những mối liên kết nội tại do bản
chất, mục đích, tinh thần, đặc tính và truyền thống của
mình. Toàn bộ di sản này là trục duy trì sự hiệp nhất của
chính hội dòng lẫn sự hiệp nhất đời sống của mỗi phần tử. Đây
là hồng ân Thánh Thần ban cho Giáo Hội, và không chấp
nhận bất kỳ sự can thiệp hay một sự pha trộn nào. Đối
thoại và chia sẻ trong Giáo Hội giả thiết rằng mỗi hội
dòng phải ý thức rõ bản chất của mình.
“Các ứng viên bước vào
đời sống tu trì ... tự đặt mình ... dưới thẩm quyền của
bề trên hội dòng. Họ không thể đồng thời phụ thuộc vào
một người nào khác ngoài hội dòng.
“Những đòi hỏi này vẫn
còn sau khi tu sĩ đã tuyên khấn, để sự trung thành khỏi
bị phân rẽ vừa ở phương diện đời sống thiêng liêng của cá
nhân lẫn ở phương diện sứ vụ của họ” (76).
Tham gia một phong
trào có thể có lợi ích tích cực cho tu sĩ nếu việc
tham gia đó giúp tăng cường chân tính riêng biệt của họ.
Một vài trường hợp đặc
biệt
63. Hoà mình với người
nghèo
Vì đồng hành với nhiều
anh chị em khác trong đức tin, các cộng đoàn tu trì ở
trong số những người đầu tiên quan tâm đến sự khó nghèo
vật chất và tinh thần của thời đại mình, theo những cách
thức thường xuyên được canh tân.
Trong những năm gần
đây, sự khó nghèo là một vấn đề đã thu hút hết tâm trí
của các tu sĩ và tác động đến tâm hồn họ. Đời sống tu trì
đã thật sự đối diện với vấn đề làm thế nào để công việc
truyền bá Phúc Âm cho người nghèo (evangelizare
pauperibus) được hữu hiệu. Nhưng người tu sĩ cũng muốn
được Phúc Âm hoá nhờ tiếp xúc với thế giới người nghèo
(evangelizari a pauperibus).
Trong cuộc động viên
to lớn này, các tu sĩ đã chọn làm chương trình cho mình :
”Mọi người vì người nghèo”, ”đa số sống với người nghèo”,
”nên giống người nghèo” ; một vài thành tựu trong lĩnh
vực ”nên giống người nghèo” đáng được quan tâm đặc biệt.
Đứng trước cái nghèo
của đa số quần chúng, đặc biệt trong những khu vực bị bỏ
rơi hoặc bị loại ra bên lề nơi những thành phố lớn, và
trong những vùng quê bị lãng quên, ”sự hoà mình của các
cộng đoàn tu trì” nổi bật như một trong những cách diễn tả
sự chọn lựa ưu tiên và lựa chọn Tin Mừng liên đới với
người nghèo. Các cộng đoàn này muốn đồng hành với người
nghèo trong tiến trình giải phóng toàn diện, nhưng
đó cũng là thành quả của ước vọng muốn khám phá Đức Ki-tô
nghèo khổ trong những anh chị em sống bên lề, để phục vụ
Người và trở nên đồng hình dạng với Người.
a. ”Hoà mình”, xét như
lý tưởng của đời sống tu trì, đã phát triển trong bối
cảnh đức tin và tình liên đới thúc đẩy các cộng đoàn tu
trì đến với những người nghèo nhất.
Đó là một thực tại
không thể không khơi dậy lòng ngưỡng mộ đối với sự tận
tuỵ bản thân và những hy sinh to lớn ; khơi dậy lòng yêu
thương người nghèo ; khơi dậy lòng yêu thương khiến người ta chia
sẻ cái nghèo thực sự khắc nghiệt của họ ; khơi dậy nỗ
lực làm cho Tin Mừng hiện diện trong những khu vực dân cư
không còn hy vọng, mang Lời Thiên Chúa đến gần họ hơn, và
làm cho họ cảm nhận được họ là thành phần sống động
của Giáo Hội (77). Những cộng đoàn này thường sống trong
những vùng ghi đậm dấu ấn bạo lực gây ra bất ổn, và đôi
khi bị ngược đãi đến mức đời sống thật sự bị nguy hiểm.
Lòng can đảm lớn lao của họ là bằng chứng rõ ràng cho
niềm hy vọng mọi người có thể sống với nhau như anh chị em, bất
chấp mọi tình huống đau khổ và bất công.
Thường được gởi
tới những lãnh vực sứ vụ biên cương, đôi khi là chứng tá
cho tính sáng tạo tông đồ của vị sáng lập, các cộng đoàn
như thế phải cố gắng tin tưởng vào thiện chí và lời cầu
nguyện huynh đệ của các phần tử trong hội dòng của họ và
vào sự quan tâm đặc biệt của các bề trên (78).
b. Không nên bỏ mặc
các cộng đoàn tu trì này một mình. Họ cần được giúp đỡ để
sống đời sống cộng đoàn. Điều này đòi hỏi phải có những
khoảng khắc dành cho việc cầu nguyện và có những trao đổi
huynh đệ, nhằm bảo đảm rằng tính độc đáo trong đoàn sủng
của hội dòng không có vẻ tương đối ít quan trọng hơn công
việc phục vụ người nghèo đồng đều, và để chứng tá Phúc Âm
của họ không bị che khuất bởi những giải thích và sự lợi
dụng của người trong nhóm (79).
Các bề trên nên thận
trọng trong việc tuyển chọn các phần tử thích hợp và
chuẩn bị các cộng đoàn như thế làm sao để bảo đảm sự liên
kết với các cộng đoàn khác trong hội dòng, nhờ đó giữ được tính
liên tục. c. Chúng ta cũng nên tán thưởng những cố gắng
của các cộng đoàn tu trì khác đang dấn thân hữu hiệu cho
người nghèo, dù là theo những đường lối truyền thống, hay
những đường lối mới phù hợp hơn với những hình thức
khó nghèo mới, hoặc bằng cách khơi dậy ý thức (về vấn đề
người nghèo) nơi mọi cấp bậc xã hội - như vậy là làm phát
sinh sự dấn thân hoạt động xã hội và chính trị, những dự án bác
ái và việc phục vụ tự nguyện giữa các ơn gọi giáo dân.
Tất cả các điều đó
chứng tỏ rằng đức tin đang sống động trong Giáo Hội, tình
yêu của Đức Ki-tô đang hoạt động và hiện diện giữa những
người nghèo : ”Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã
làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25,40).
Ở đâu sự hoà mình
giữa người nghèo đã trở nên một kinh nghiệm về Thiên Chúa
cho cả người nghèo lẫn cộng đoàn tu trì, thì nơi đó thực
sự có kinh nghiệm để khẳng định rằng người nghèo được rao
giảng Phúc Âm và người nghèo rao giảng Phúc Âm.
64. Các cộng đoàn nhỏ
a. Các nhân tố xã hội
khác cũng ảnh hưởng đến các cộng đoàn. Trong một vài vùng
phát triển về kinh tế, Chính quyền tỏ ra tích cực
hơn trong một số lãnh vực như giáo dục, sức khoẻ và các
dịch vụ xã hội, thường để lại rất ít hoặc không để lại chỗ
trống nào cho các tác nhân khác, như các cộng đoàn tu trì
chẳng hạn. Mặt khác, vì sự giảm sút về số lượng các nam
nữ tu sĩ, và ở nơi này hay nơi khác, một hiểu biết
giới hạn về sự hiện diện của người Công Giáo trong các
hoạt động xã hội, được coi là có tính cách bổ túc hơn là một
biểu hiện đích thực của tinh thần bác ái Ki-tô giáo, đã
gây khó khăn cho việc thực hiện các dự phóng phức tạp.
Vì vậy, trong một vài
miền, người ta đã dần dần bỏ các hoạt động truyền thống -
trong nhiều năm vẫn do các cộng đoàn vững mạnh và
đồng nhất đảm nhận - và nơi các cộng đoàn nhỏ lại gia
tăng những loại dịch vụ mới, thường không phù hợp với
đoàn sủng của hội dòng.
b. Những cộng đoàn nhỏ
hơn cũng đã thường trở nên như là kết quả của việc một số
hội dòng chọn lựa kỹ lưỡng nhằm cổ võ sự hiệp nhất và
cộng tác huynh đệ qua những mối liên hệ gần gũi hơn giữa
các cá nhân, qua việc chia sẻ trách nhiệm hỗ tương và
dựa trên căn bản rộng rãi hơn.
Những cộng đoàn như
thế, đã được nói đến trong tông huấn Chứng tá Phúc Âm
(80) chắc chắn là có thể hiện hữu, mặc dù tỏ ra đòi hỏi
các phần tử nhiều hơn.
c. Những cộng đoàn
nhỏ, thường tiếp xúc gần gũi với cuộc sống và các vấn đề
hằng ngày của con người, nhưng cũng bị ảnh hưởng nhiều
bởi não trạng thế tục, có trách nhiệm quan trọng là phải
trở nên những nơi chốn hữu hình của một tình huynh đệ
hạnh phúc, của sự cần cù quảng đại và của niềm hy vọng
siêu việt.
Vì vậy các cộng đoàn
này cần phải có một chương trình sống vững vàng, linh
động và chặt chẽ, và phải được giới chức trách có thẩm
quyền chấp thuận để việc tông đồ mang tính cộng đoàn.
Chương trình này phải phù hợp với các cá nhân cũng như
những nhu cầu của sứ vụ, bằng cách phát triển hài hoà
việc cầu nguyện và hoạt động, những lúc gần gũi thân mật
trong cộng đoàn và lúc hoạt động tông đồ. Chương trình đó
cũng nên bao gồm cả những cuộc gặp gỡ định kỳ với các
cộng đoàn khác trong cùng một hội dòng. Mục đích chính là
nhằm vượt qua nguy cơ bị cô lập và tách rời khỏi cộng đoàn lớn
hơn của hội dòng.
d. Cho dù các cộng
đoàn nhỏ có thể đem lại những cơ hội thuận lợi, thì bình
thường cũng không nên khuyến khích thiết lập một hội dòng
chỉ gồm những cộng đoàn nhỏ. Rất cần có những cộng đoàn lớn
hơn. Những cộng đoàn này có thể cung cấp những trợ
giúp đầy ý nghĩa cho toàn hội dòng lẫn các cộng đoàn nhỏ
hơn, nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện và các việc cử hành
nghi lễ sốt sắng và phong phú hơn ; là nơi thích hợp
để nghiên cứu và suy tư ; là nơi tĩnh tâm và nghỉ ngơi
cho các thành viên đang hoạt động trên những biên cương
đầy khó khăn của sứ vụ rao giảng Phúc Âm.
Bầu khí thân ái và
chấp nhận lẫn nhau sẽ đem lại nhiều kết quả do việc hỗ
tương qua lại giữa hai hình thức cộng đoàn trên.
Người ta nhận biết
những cộng đoàn đó trước tiên qua tình yêu thương huynh
đệ liên kết các phần tử, qua cuộc sống giản dị của họ,
qua sứ vụ mà họ đảm trách với danh nghĩa cộng đoàn, qua
việc trung thành kiên trì với đoàn sủng của họ, qua việc không ngừng
truyền thông ”hương vị ngọt ngào” của Đức Ki-tô (2 Cr
2,15), để trong những hoàn cảnh bất thường nhất, họ
vẫn có thể bày tỏ ”con đường bình an”, thậm chí ngay cả cho
những thành phần bị hoang mang và phân tán của xã hội tân
tiến.
65. Các tu sĩ nam nữ
sống một mình
Một trong những thực
tại đôi khi chúng ta gặp phải là tình trạng các tu sĩ nam
hoặc nữ sống một mình. Đời sống chung trong một nhà của hội
dòng là lối sống chính yếu của đời tu. ”Các tu sĩ phải
sống trong nhà dòng của mình, tuân thủ nếp sống chung.
Họ không nên sống một mình nếu không có lý do hệ trọng,
và không nên sống như vậy nếu có một cộng đoàn của hội
dòng ở gần đấy” (81).
Tuy nhiên, có những
ngoại lệ cần được các bề trên lượng định và cho phép (82)
vì lý do tông đồ nhân danh hội dòng, (chẳng hạn như những
công việc do Giáo Hội yêu cầu ; những sứ vụ khác thường ;
những vùng xa xôi trong miền truyền giáo ; sự giảm sút dần dần
các thành viên của cộng đoàn, đến nỗi chỉ có một tu sĩ
duy nhất phụ trách một trong những công việc của hội
dòng), hoặc vì lý do sức khoẻ và học hành.
Trong khi trách nhiệm
của các bề trên là phải củng cố liên lạc thường xuyên với
các thành viên sống ngoài cộng đoàn, thì bổn phận của
các tu sĩ này là phải luôn ý thức rằng mình thuộc về hội
dòng và hiệp thông với các phần tử của hội dòng, và tìm mọi
phương thế thích hợp để củng cố mối dây huynh đệ. Phải
hoạch định những thời kỳ sống huynh đệ thắm thiết,
cũng như những cuộc gặp gỡ thường xuyên với các tu sĩ bạn
nhằm đào tạo, chia sẻ huynh đệ, duyệt lại đời sống, và
cầu nguyện, để hít thở bầu khí gia đình. Dù ở đâu đi nữa,
các phần tử của hội dòng cũng là những người mang đoàn sủng của
gia đình tu trì của họ.
Tu sĩ sống một mình
không bao giờ là điều lý tưởng. Nguyên tắc là tu sĩ phải
sống trong những cộng đoàn huynh đệ : mỗi cá nhân được thánh
hiến trong đời sống chung này, và chính trong lối sống này mà
các tu sĩ nam nữ đảm nhận tác vụ tông đồ của họ một cách
bình thường ; họ phải trở về đời sống này, cả tâm hồn lẫn
con người, trong khi vì cần thiết, họ phải sống cách biệt
một thời gian dài hoặc ngắn.
a. Những đòi hỏi của
công việc tông đồ đặc biệt, chẳng hạn như công việc của
giáo phận, đã khiến nhiều hội dòng khác nhau phải gởi một
trong những phần tử của mình cộng tác trong đội ngũ liên hội
dòng. Có những kinh nghiệm tích cực trong đó các tu sĩ cộng
tác trong việc phục vụ một công việc đặc biệt ở nơi không
có cộng đoàn của hội dòng mình, thay vì sống một mình, họ
lại sống chung một nhà, cầu nguyện chung với nhau, họp nhau để
suy niệm Lời Chúa, chia sẻ lương thực và những công việc
trong nhà, v.v... Bao lâu điều này không thay thế việc sống
hiệp thông với hội dòng riêng của họ, thì ”đời sống cộng
đoàn” loại này có thể thuận lợi cho công việc và cho
chính các tu sĩ.
Tu sĩ nên cẩn thận khi
muốn đảm nhận một công việc mà bình thường đòi hỏi họ
phải sống ngoài cộng đoàn, và các bề trên cũng nên khôn
ngoan trong việc chỉ định các phần tử vào những công việc này.
b. Những đòi hỏi phải
chăm sóc cha mẹ già yếu bệnh tật thường kéo theo sự vắng
mặt lâu dài khỏi cộng đoàn, cũng cần phân định cẩn thận,
và có thể đáp ứng những nhu cầu như thế bằng những cách sắp xếp
khác để con cái không phải vắng mặt lâu quá.
c. Cần lưu ý rằng, các
tu sĩ sống một mình, không có sự bổ nhiệm hay phép của bề
trên, là đang trốn tránh bổn phận sống chung. Tham dự
một vài cuộc hội họp hay nghi lễ chưa đủ để là một tu sĩ
trọn vẹn. Phải nỗ lực dẹp bỏ dần dần những hoàn cảnh
không chính đáng và không thể chấp nhận được như thế đối
với các tu sĩ nam nữ.
d. Trong mỗi trường
hợp, nên nhắc lại rằng, ngay cả khi sống ngoài cộng đoàn,
tu sĩ vẫn thuộc quyền của giám mục trong lãnh vực
hoạt động tông đồ (83), giám mục phải được thông báo về
sự hiện diện của tu sĩ trong giáo phận của mình.
đ. Nếu chẳng may có
những hội dòng mà đa số các thành viên không còn sống
trong cộng đoàn nữa, thì các hội dòng đó không còn
được coi là dòng tu thực sự. Các bề trên và các tu sĩ
được mời đặc biệt suy tư về hậu quả đáng buồn này, và từ đó
suy nghĩ về tầm quan trọng trong việc mạnh mẽ phục hồi việc
thực hành đời sống chung huynh đệ.
66. Các miền truyền
giáo
Đời sống chung huynh
đệ có giá trị đặc biệt trong những miền truyền giáo (ad
gentes), vì tỏ ra cho thế giới, nhất là thế giới ngoài Ki-tô
giáo, thấy ”tính chất mới mẻ” của Ki-tô giáo, đó là, đức
ái có khả năng thắng vượt mọi phân rẽ do chủng tộc, màu
da và thị tộc. Nơi những quốc gia không thể rao giảng
Tin Mừng được, thì các cộng đoàn tu sĩ gần như là dấu
hiệu duy nhất, là chứng tá thầm lặng và hữu hiệu của Đức Ki-tô
và của Giáo Hội.
Nhưng nhiều khi rõ
ràng chính trong các khu vực truyền giáo mà các tu
sĩ phải đương đầu với những khó khăn thực tế đáng lưu
tâm trong việc xây dựng những cộng đoàn vững chắc và khả
thị : những khoảng cách không gian đòi hỏi phải có những
cộng đoàn đầy năng động và rải rác trong một phạm vi rộng
; việc thuộc về những chủng tộc, thị tộc, nền văn hoá
khác nhau ; nhu cầu cho việc đào tạo trong những trung
tâm liên dòng. Những điều này và những nhân tố khác có
thể gây trở ngại cho một cộng đoàn lý tưởng.
Điều quan trọng là các
phần tử của hội dòng ý thức được tính cách khác thường
của hoàn cảnh, cổ võ thông tin cho nhau thường xuyên,
thúc đẩy những cuộc gặp gỡ chung đều đặn, và xây dựng những
cộng đoàn huynh đệ có đặc tính truyền giáo mạnh mẽ càng
sớm càng tốt, nhờ đó các cộng đoàn có thể là dấu chỉ
truyền giáo tuyệt hảo : ”Xin cho tất cả nên một ...,
để thế gian tin” (Ga 17,21).
67. Tổ chức lại công
việc
Những thay đổi trong
các điều kiện văn hoá và trong Giáo Hội, những nhân tố
nội tại trong việc phát triển các hội dòng và những thay
đổi về nguồn lực của các hội dòng có thể đòi phải tổ chức
lại công việc và sự hiện diện của các cộng đoàn tu trì.
Công việc này, một
công việc không dễ, có những hệ luỵ thực sự liên quan tới
cộng đoàn. Nói chung, đó là những công việc mà nhiều anh
chị em đã cống hiến những năng lực tông đồ cao nhất của
mình, và bị ràng buộc bởi những liên hệ tâm lý và thiêng
liêng đặc biệt.
Tương lai của những
công việc này, ý nghĩa tông đồ và việc tổ chức lại những
công việc đó đòi hỏi phải nghiên cứu, so sánh và phân
định. Tất cả những chuyện này có thể trở thành một mái trường
để học tìm kiếm và tuân theo ý muốn của Thiên Chúa,
nhưng đồng thời cũng có thể là một dịp gây ra những xung
đột đau đớn không dễ dàng vượt qua.
Những tiêu chuẩn không
thể bỏ qua và chúng soi sáng cộng đoàn khi cần quyết định, đôi
khi phải can đảm và đau đớn, là : tận tâm bảo vệ ý nghĩa
của đoàn sủng riêng trong một bối cảnh riêng biệt, quan tâm duy
trì một đời sống huynh đệ thực sự, và chú trọng tới những nhu
cầu của Giáo Hội địa phương. Vì thế, một sự đối thoại tin
tưởng và liên tục với Giáo Hội địa phương quả là
thiết yếu, vì là mối liên kết hữu hiệu với những người
chịu trách nhiệm về sự hiệp thông giữa các tu sĩ.
Thêm vào việc chú ý
đến những nhu cầu của Giáo Hội địa phương, các cộng đoàn
tu trì cũng phải quan tâm đến tất cả những gì mà thế giới
xao lãng - đó là những hình thức mới của cảnh khó nghèo và
đau khổ dưới nhiều dạng mà chúng ta gặp thấy ở nhiều nơi
khác nhau trên thế giới.
Việc tổ chức lại sẽ có
tính sáng tạo và là nguồn mạch của những dấu chỉ ngôn sứ
nếu quan tâm loan báo những cách thức hiện diện mới - dù
chỉ trong một số nhỏ - để đáp ứng những nhu cầu mới, đặc
biệt là những nhu cầu của đa số các khu vực bị bỏ rơi
và quên lãng.
68. Các tu sĩ cao niên
Hiện nay, một trong
những tình huống mà đời sống cộng đoàn thường gặp phải
nhiều, đó là sự gia tăng tuổi tác nơi các phần tử. Tuổi
tác mang một ý nghĩa đặc biệt vừa vì số ơn gọi mới
giảm sút, vừa vì những tiến bộ của y học. Đối
với cộng đoàn, một mặt, sự kiện này có nghĩa là quan
tâm đến việc chấp nhận và coi trọng sự hiện diện cũng như
việc phục vụ mà các anh em cao niên đã có thể cống hiến
nơi cộng đoàn, mặt khác, điều đó cũng có nghĩa là để ý
đến việc cung cấp - một cách thân tình và phù hợp với đời
sống thánh hiến - những trợ giúp về mặt tinh thần cũng như
vật chất mà người có tuổi cần đến.
Sự hiện diện của những
anh chị em lớn tuổi trong các cộng đoàn có thể rất tích
cực. Một tu sĩ đã cao niên mà vẫn không để những phiền
luỵ cũng như những giới hạn về tuổi tác chế ngự được mình,
nhưng cứ sống vui vẻ, yêu thương và hy vọng, thì tu sĩ đó lại
trở nên nguồn nâng đỡ quý giá đối với những người trẻ.
Các tu sĩ cao niên mang lại một chứng tá, sự khôn ngoan
và lời cầu nguyện, đó là nguồn động viên thường xuyên cho
những người trẻ trong hành trình tâm linh và tông đồ của
họ. Hơn nữa, người tu sĩ quan tâm đến những anh em cao
niên sẽ đem lại một sự khả tín có tính cách Tin Mừng cho hội
dòng của mình như là một ”gia đình đích thực được quy tụ
nhân danh Thiên Chúa” (84).
Những người tận hiến
cũng nên chuẩn bị một thời gian dài trước để trở nên già
cả và để kéo dài những năm ”hoạt động” bằng việc học biết
cách thức mới để xây dựng cộng đoàn và cộng tác vào sứ vụ
chung, tích cực đáp ứng những thách đố của thời đại mình,
nhờ những mối quan tâm sống động về tinh thần và văn hoá,
bằng lời cầu nguyện, bằng việc tiếp tục tham gia hoạt động
bao lâu còn có thể phục vụ, cho dù có bị giới hạn. Các bề
trên cũng nên sắp xếp các khoá học và những cuộc gặp gỡ
để giúp đỡ việc chuẩn bị cá nhân, kéo dài và tăng cường
sự hiện diện của các tu sĩ trong vị trí công tác bình
thường của họ càng nhiều càng tốt.
Đến khi các phần tử
cao niên không còn độc lập được nữa, hoặc khi họ cần đến
sự chăm sóc đặc biệt, kể cả sự chăm sóc của người giáo
dân, thì hội dòng nên quan tâm nhiều đến việc nâng đỡ họ,
nhờ đó họ vẫn cảm thấy mình là một phần trong đời sống
của hội dòng, chia sẻ sứ vụ của hội dòng, liên đới trong
năng động lực tông đồ của hội dòng, an ủi họ trong những
lúc cô độc, khích lệ họ khi họ gặp đau khổ. Họ không bao giờ
từ bỏ sứ vụ, nhưng họ ở tại chính trung tâm của sứ vụ khi
tham dự vào sứ vụ đó bằng một cách thức mới mẻ và hiệu
quả.
Dù âm thầm, thành quả
của họ không kém gì so với các cộng đoàn năng động hơn.
Các cộng đoàn này nhận được sức mạnh và hoa trái nhờ lời
cầu nguyện, nhờ những đau khổ và những việc xem ra có vẻ ít
ảnh hưởng của các anh em cao niên. Sứ vụ cần cả hai hình thức
đó, và những kết quả sẽ trở nên rõ ràng khi Chúa đến
trong vinh quang cùng với các thiên thần của Người.
69. Những vấn đề nảy
sinh từ việc gia tăng số tu sĩ cao niên trở nên gay cấn
hơn đối với một số đan viện thiếu ơn gọi. Vì bình
thường, mỗi đan viện là một cộng đoàn độc lập, nên tự
mình khó có thể vượt qua được những vấn đề này. Vì thế,
nên nhắc lại tầm quan trọng của những cơ cấu hiệp thông,
như các liên hiệp chẳng hạn, để khắc phục những hoàn cảnh
rất cần đến nhân sự.
Sự trung tín với đời
sống chiêm niệm đòi hỏi các phần tử của một đan viện phải
hiệp nhất với một đan viện khác trong cùng một dòng khi
một cộng đoàn đan viện, vì con số các phần tử, tuổi tác hoặc
thiếu ơn gọi, thấy trước sự tan rã của cộng đoàn.
Cũng vậy, trong hoàn cảnh đáng buồn của những cộng đoàn
không còn có thể sống theo ơn gọi riêng của mình, vì các
phần tử bị kiệt sức dần do công việc hoặc phải săn sóc những
anh em già cả, yếu đau, khi đó cần phải xin dòng trợ lực,
hoặc phải lựa chọn liên kết hoặc sát nhập với đan viện
khác (85).
70. Mối tương quan mới
đối với giáo dân
Giáo Hội học của Công
Đồng đã chiếu toả ánh sáng vào tính cách bổ túc của những
ơn gọi khác nhau trong Giáo Hội mà chúng ta được kêu mời
cùng nhau trở nên chứng tá cho Chúa Phục Sinh trong mọi hoàn
cảnh và nơi chốn. Sự gặp gỡ và cộng tác giữa các tu sĩ nam
nữ và tín hữu giáo dân được coi là một thí dụ về sự
hiệp thông trong Giáo Hội, đồng thời củng cố các năng lực
tông đồ để Phúc Âm hoá thế giới.
Sự tiếp xúc thích đáng
giữa các giá trị là đặc trưng của ơn gọi giáo dân, chẳng
hạn như một nhận thức cụ thể hơn về đời sống con người,
văn hoá, chính trị, kinh tế, v.v..., và những giá trị là đặc
trưng của đời sống tu trì, như việc theo Chúa Ki-tô cách triệt
để, chiều kích chiêm niệm và cánh chung của đời sống theo
Ki-tô giáo, v.v... có thể biến thành sự trao đổi các ân
điển một cách hữu ích giữa người tín hữu giáo dân và các
cộng đoàn tu trì.
Sự cộng tác và trao
đổi các ân điển trở nên chặt chẽ hơn, khi do ơn gọi và
theo cách thức riêng, các nhóm giáo dân chia sẻ đoàn
sủng và sứ vụ của hội dòng tại trung tâm của cùng một gia
đình thiêng liêng. Theo cách này, có thể thiết lập những mối
tương quan hữu ích, dựa trên những liên hệ đồng trách nhiệm
chín chắn, và được hỗ trợ bởi những chương trình được
hoạch định thường xuyên để huấn luyện về linh đạo của hội
dòng.
Tuy nhiên, để đạt được
mục tiêu đó, cần phải có : những cộng đoàn tu trì với căn
tính đoàn sủng rõ rệt, khi đã được tiếp tục và được sống,
có khả năng chuyển trao và sẵn sàng chia sẻ cho người
khác ; những cộng đoàn có một nền linh đạo mạnh mẽ và
nhiệt tình truyền giáo để thông truyền cùng một tinh thần và
cùng một lực đẩy để Phúc Âm hoá ; những cộng đoàn tu trì
biết cách cổ vũ và khích lệ người giáo dân chia sẻ đoàn
sủng của hội dòng, theo đặc tính trần thế của họ và theo
lối sống khác biệt của họ, mời gọi họ khám phá những
phương thức mới để thực thi cùng một đoàn sủng và cùng
một sứ vụ. Như vậy, một cộng đoàn tu trì trở thành trung tâm chiếu
toả, một sức mạnh thiêng liêng, một trung tâm của nhiệt
tình, của tình huynh đệ phát sinh tình huynh đệ, và của
sự hiệp thông và cộng tác trong Giáo Hội, nơi đó những
đóng góp khác nhau của mỗi người giúp xây dựng Thân Thể
Đức Ki-tô, tức là Giáo Hội.
Dĩ nhiên, sự cộng tác
chặt chẽ phải được thực hiện với lòng kính trọng ơn gọi
của nhau, và những lối sống khác biệt phù hợp với người
tu trì và phù hợp với người giáo dân.
Một cộng đoàn tu trì
có những nhu cầu riêng của mình về hứng khởi, thời biểu,
kỷ luật và sự cách biệt (86), nên không thể chấp
nhận được những hình thức cộng tác bao hàm việc đồng cư
và sống chung giữa tu sĩ và giáo dân, kể cả khi những sắp
xếp như thế có định rõ những điều kiện cần phải được tôn
trọng.
Nếu không, một cộng
đoàn tu trì sẽ đánh mất đặc điểm riêng của mình mà cộng
đoàn có trách nhiệm phải duy trì bằng cách tuân giữ
đời sống chung.
KẾT LUẬN
71. Cộng đoàn tu trì,
xét như là một cách biểu lộ Giáo Hội, là hoa quả của Chúa
Thánh Thần, và là sự tham dự vào sự hiệp thông của Ba
Ngôi. Vì thế, mọi tu sĩ đều phải cảm thấy mình đồng trách
nhiệm đối với đời sống huynh đệ cộng đoàn, ngõ hầu bộc lộ
việc họ thuộc về Đức Ki-tô, Đấng đã chọn và kêu gọi các
anh em và chị em sống với nhau nhân danh Người.
“Hiệu quả của đời sống
tu trì tuỳ thuộc vào phẩm chất của đời sống huynh đệ cộng
đoàn. Hơn nữa, đặc điểm của phong trào canh tân trong
Giáo Hội và trong đời tu là tìm kiếm sự hiệp thông và cộng đoàn”
(87).
Đối với một vài tu sĩ
và một vài cộng đoàn, công việc khởi sự tái xây dựng nếp
sống huynh đệ cộng đoàn có vẻ là một chuyện chán nản,
thậm chí không tưởng. Đứng trước một số vết thương trong
quá khứ và những khó khăn trong hiện tại, công việc có vẻ
vượt quá các khả năng của con người yếu đuối.
Vấn đề là suy tư trong
đức tin về ý nghĩa thần học của đời sống huynh đệ cộng
đoàn, của việc xác tín rằng chứng tá sự thánh hiến tuôn
trào từ đời sống đó.
Đức Thánh Cha nói :
”Câu trả lời cho lời mời gọi cùng với Chúa kiên trì xây
dựng cộng đoàn mỗi ngày diễn ra trên đường thánh giá ;
câu trả lời này đòi hỏi phải bỏ mình thường xuyên” (88).
Hiệp với Đức Ma-ri-a,
Thân Mẫu Đức Giê-su, các cộng đoàn chúng ta kêu cầu Chúa
Thánh Thần, Đấng có sức mạnh kiến tạo các cộng đoàn huynh
đệ có khả năng toả chiếu niềm vui của Tin Mừng và có thể
lôi cuốn những môn sinh mới, theo gương cộng đoàn tiên khởi :
”Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, siêng năng tham dự lễ bẻ
bánh và cầu nguyện” (Cv 2,42), ”Càng ngày càng có thêm nhiều
người tin theo Chúa : đàn ông đàn bà đông vô kể” (Cv
5,14).
Nguyện xin Đức Ma-ri-a
quy tụ các cộng đoàn tu trì và trợ giúp họ hằng ngày nhờ
lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần, Đấng là dây liên kết,
là men và là nguồn mạch của mọi sự hiệp thông huynh đệ.
Ngày 15 tháng 1 năm
1994, Đức Thánh Cha đã châu phê văn kiện này của Bộ các
hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ, và đã ban
phép công bố.
Rô-ma, ngày 2 tháng 2
năm 1994,
lễ
dâng Chúa trong đền thờ
Hồng
Y Eduardo Martinez Somalo, Tổng Trưởng
Francisco
Javier Errázuriz Ossa, Tổng thư ký
Phần
Chú Thích
(1)
DT 2.
(2)
X. DT 2-4.
(3)
X. DT 44d.
(4)
X. DT 15a ; GH 44c.
(5)
X. LH 11.
(6)
GH 12.
(7)
X. LH 14.
(8)
X. CT 30-39 ; LH 2, 3, 10, 14 ; YT 18-22 ; HL 25-28 ; cũng xc. GL
602.
(9)
X. GL 594, §1.
(10)
X. DT 15.
(11)
X. GL 602, 619.
(12)
GL 607,§2.
(13)
X. Giáo luật 602.
(14)
X. GL 608 ; 665, §1.
(15)
GL 731, §1.
(16)
X. GL 607, §2 ; cũng xc. GL 602.
(17)
X. GL 587.
(18)
Santo Domingo, HĐGM Mỹ châu La-tinh lần thứ IV, 1992, 178, 180.
(19)
X. Phẩm giá phụ nữ ; MV 9, 60.
(20)
X. DT 15a ; GL 602.
(21)
X. MV 3.
(22)
X. GH 7.
(23)
X. GH 4 ; LH 2.
(24)
X. DT 1 ; YT 18-22.
(25)
X. DT 1.
(26)
TT 24.
(27)
HL 21-22.
(28)
CN 15.
(29)
X. GL 663, §3 và 608.
(30)
X. LM 6 ; DT 6.
(31)
X. GL 608.
(32)
LM 6.
(33)
X. GL 663, §4.
(34)
CN 15.
(35)
X. HL 32-34 ; 87.
(36)
X. GH 46b.
(37)
X. GL 602 ; DT 15a.
(38)
X. CT 39.
(39)
X. DT 14.
(40)
X. GL 619.
(41)
X. CT 39 ; YT 19.
(42)
Thánh Hi-la-ri-ô, Khảo luận về Thánh vịnh 132, PL Suppl. 1,244.
(43)
Xem trên đây, các số 14, 16, 28 và 31.
(44)
X. CN 14 ; ĐT 17 ; GL 666.
(45)
GH 46.
(46)
Như trên.
(47)
X. YT 45.
(48)
Như trên.
(49)
YT 47.
(50)
X. GH 44.
(51)
HL 43. ỴHEADER-A = 536
(52)
HL 43, 51, 63.
(53)
HL 52.
(54)
DT 14c ; GL 618 ; YT 49.
(55)
YT 22 ; cũng x. LH 12.
(56)
X. CT 40.
(57)
X. HL 66-69.
(58)
X. TT 25.
(59)
LH 13.
(60)
DT 12 ; xc. GL 607.
(61)
YT 18 ; xc. LH 11-12.
(62)
X. LH 11.
(63)
X. LH 11-12 ; YT 11 ; 41.
(64)
GL 619.
(65)
X. GL 618.
(66)
Như trên.
(67)
GL 619.
(68)
X. DT 14 ; YT 49.
(69)
Đức Gio-an Phao-lô II, gửi phiên họp khoáng đại Bộ các hội
dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ, 20-11-1992.
(70)
X. GH 1.
(71)
Đức Gio-an Phao-lô II, như trên, số 4.
(72)
Ki-tô hữu giáo dân 32 ; xc. LM 2.
(73)
GH 46a.
(74)
X. LH 30b, 47.
(75)
LH 49-50.
(76)
HL 93.
(77)
X. Santo Domingo 85.
(78)
X. TT 6 ; LB 69 ; Santo Domingo 92.
(79)
X. HL 28.
(80)
X. CT 40.
(81)
YT III, s. 12.
(82)
X. GL 665,§1.
(83)
X. GL 678, §1.
(84)
DT 15a.
(85)
X. DT 21 và 22.
(86)
X. GL 667, 607 §3.
(87)
Đức Gio-an Phao-lô II, gửi phiên họp khoáng đại Bộ các hội
dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ, 20-11-1992.
(88)
Như trên, số 2.
Nguồn : http://sucsongchuakito.net/news.aspx?newsid=582
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét